Thursday, November 10, 2011

Tôi Tìm Tự Do Section 2 Page 100-199

Tôi cố vớt vát: "Thì có phòng có hơn. Bộ dân quèn là coi thường sao? Mày cũng biết, xã hội này mỗi người dân là một người công an"...
Tôi vừa nói đến đó thì thấy ngay, phía trước mặt, dưới ngọn đèn đường, một người đàn ông đang đứng, nhìn về phía chúng tôi trong vẻ chờ đợi. Khoảng cách giữa ông với chúng tôi quá gần, nên tôi nhận ra ngay, ông ta chính là người đàn ông chúng tôi đã phải né tránh ở trong quán ăn. Sự xuất hiện đột ngột của ông ta, trong khi khoảng cách lại quá gần, nên chúng tôi thấy không còn cách nào khác, ngoài cách phải thản nhiên đối diện với ông, rồi đến đâu tính đến đó.
Khi đến gần, tôi thấy ông rõ hơn. Tay ông cầm một chiếc điều cầy ngoại cỡ, to hơn bắp vế chân. Thông thường, điều cầy làm bằng ống nứa, nhỏ thì bằng cổ tay, to thì bằng cổ chân. To quá, mình làm sao có đủ hơi mà rít, mà kéo. Vậy mà chiếc điếu cầy của người đàn ông chắc phải làm bằng loại lồ ô, to bằng hai, bằng ba loại điều cầy thường. Đã vậy, chiếc điều cầy này lại dài gấp hai loại thường. Trong thời gian chúng tôi xuyên rừng Trường Sơn vô Nam, tại những buôn, bản của người thiểu số, tôi đã từng thấy có những chiếc điếu cầy to ngoại cỡ, nhưng chưa có chiếc điếu cầy nào to như chiếc điếu cầy người đàn ông đang cầm. Nhìn chiếc điếu cầy, tôi nghĩ ngay, người đàn ông phải rất khoẻ, và chắc chắn ông phải là người thiểu số thì mới có loại điếu cầy to quá cỡ như vậy.
Khoảng cách hai bên rút ngắn lại trong khoảnh khắc. Ngay khi đó, người đàn ông cất tiếng, giọng trọ trẹ Nghệ Tĩnh:
- Các ông anh cho xin tí lửa hút thuốc!
Tôi lúc đó không hút thuốc. Chỉ có Bình và Dưỡng. Bình thủ thế với người đàn ông nên y lắc đầu, không nói. Chỉ còn Dưỡng. Sau một giây ngần ngừ, Dưỡng rút hộp quẹt, trao cho người đàn ông. Người đàn ông dơ tay phải cầm hộp quẹt, mở nắp, bật lửa, điệu bộ rất thành thạo, khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên. Chiếc quẹt của Dưỡng là loại quẹt Zippo, một bên có hình mấy con chó, còn bên kia có mấy chữ viết tắt lâu ngày tôi không nhớ. Từ trong tay trái của người đàn ông bỗng xuất hiện một nắm bùi nhùi, không biết ông ta lấy từ đâu. Còn chiếc điếu cầy dài thoòng thì lúc này lủng lẳng dưới cổ của ông bằng một sợi dây dù màu trắng.
Sau khi chiếc bùi nhùi bừng sáng, người đàn ông vẫn không chịu trả lại chiếc hộp quẹt cho Dưỡng. Ông đưa chiếc điếu cầy lên miệng hít nhẹ vài cái. Lập tức chiếc điếu cầy kêu lên những tiếng ròn tan lanh lảnh. Dưới ánh đèn điện vàng vọt, tôi nhìn thấy rõ ở đầu của nõ điếu to hơn ngón chân cái, một bi thuốc lào to như quả quất nằm gọn thon lọn. Chờ cho chiếc điếu trả lời bằng những hồi ròn tan, nghe thiệt đã tai, người đàn ông mới đưa miệng điếu cầy về một bên mép, tay dí chiếc bùi nhùi vào nõ điếu, rồi hít nhịp nhịp vài hơi cho bi thuốc lào bén lửa... Khi bi thuốc bén lửa vừa đủ, người đàn ông bắt đầu rít một hơi thật dài, làm chiếc điếu kêu lên một hồi thiệt rõ to và ròn tan, nghe váng cả tai....
Nghe chiếc điếu cầy kêu một hồi dài không dứt, nhìn người đàn ông ém khói một cách ngon lành trong chiếc lồng ngực khổng lồ rộng như cánh phản, rồi thấy khói thuốc cuồn cuộn bay ra từ miệng, từ hai lỗ mũi  bao trùm cả một vùng dưới cột đèn, chúng tôi biết rằng, người đàn ông trước mặt có hai lá phổi khổng lồ và một sức mạnh kinh khủng. Tự dưng, lúc đó trong vùng khói thuốc mù mịt, không ai bảo ai, cả ba đứa chúng tôi đứng đó, ngước mắt nhìn người đàn ông lạ mặt, và tất cả đều thấy mình trở nên nhỏ bé lạ lùng...

KỲ  29

Buổi chiều hôm đó, trong ánh sáng chập choạng của hoàng hôn, đứng trong khói thuốc, hít mùi thuốc lào đậm đặc trong không khí, tôi bỗng nhớ thầy tôi vô cùng.... Hình ảnh của hững năm tháng xa xưa, những lúc mùa đông gió rét, lạnh lẽo căm căm, tôi được ngồi hóng chuyện bên cạnh chiếc điếu ống, có chiếc cần cong vút lại hiện về. Chiếc điếu ông ngày đó là dấu ấn cuối cùng đánh thức một thuở vàng son quá khứ để những người như thầy tôi tưởng nhớ, hoài niệm. Trong những ngày tháng đó, mỗi khi có khách, anh của tôi vẫn không chịu cho thầy tôi mang chiếc điếu ống ra ngoài nhà hút, vì sợ khách biết đến những "dấu vết phong kiến" còn tồn đọng trong nhà, ảnh hưởng đến việc "phấn đấu" của ảnh. Nhưng đối với những vị khách của thầy tôi như ông đồ Tường, ông lang An, thì chiếc điếu ống luôn luôn là một kỷ vật gợi nhớ rất nhiều kỷ niệm cho cả chủ lẫn khách. Những ngày tháng đó, mỗi khi thấy thầy tôi hút thuốc lào, là tôi vội chạy lại hít khói thuốc, mặc cho ông cụ rầy la. Cuộc sống ở Miền Bắc thời ấy, thiếu thốn trăm bề, ngay cả thuốc lào cũng không có đủ cho thầy tôi hút. Tôi nhớ có nhiều ngày, không có thuốc, thầy tôi chỉ ngậm chiếc tẩu không, như thói quen của một người nghiền, cho đỡ nhớ, đỡ thèm. Sau này, đọc hồi ký Bạn Tù Sơn La của nhà văn Phan Lạc Phúc, đến đoạn ông mô tả cảnh thèm thuốc lào, điếu thuốc lào là một cái đích để người tù vươn tới, rồi có những người tù chế "thuốc lào ngải cứu" hút đến chảy máu mũi ròng ròng.... tôi rất xúc động, rưng rưng nước mắt. Nhưng người tù trong hồi ký của nhà văn Phan Lạc Phúc dù nghiện thuốc lào, thèm thuốc, không có thuốc, vẫn còn được tự do tìm đủ mọi cách xoay xở để giải quyết cơn nghiện của riêng mình. Còn thầy tôi trong những ngày tháng thiếu thốn đó, phải một mình cáng đáng mẹ già trên 90 tuổi, con thơ mới 5, 7 tuổi, trong hoàn cảnh của một người bị quy tội "địa chủ", không những hàng xóm láng giềng xa lánh, mà ngay cả người thân cũng lánh xa, thì nếu thầy tôi có đi chợ bán thuốc, kiếm được một vài hào bạc, thầy tôi cũng chỉ nghĩ đến chuyện mua khoai, mua gạo, nấu cho mẹ, cho con ăn cho đỡ đói, chứ đâu có thể "xa xỉ" mà nghĩ đến chuyện mua thuốc lào thỏa mãn cơn nghiện...

Người đàn ông ngước mặt lên trời nhả khói một cách say sưa, như quên hẳn ba đứa chúng tôi. Thấy người đàn ông say sưa, lại có bộ điệu ngang tàng, lạ lùng, nên dù người đàn ông chưa chịu trả hộp quẹt Zippo, Dưỡng cũng không tiện hỏi và chúng tôi cũng không ai dục. Bỗng nhiên người đàn ông hỏi trống, mặt vẫn ngửa lên trời:
- Trong Nam ra phải không?
Chúng tôi giật mình, ngạc nhiên nhìn nhau, nhưng không ai trả lời. Sau một thoáng im lặng, người đàn ông tiếp:
- Tàu suốt từ Vinh ra Hà Nội phải đến trưa mai mới có. Chờ tàu ở ga buồn thấy mẹ. Nếu rảnh thì kéo về nhà tớ chơi.
Tôi đưa mắt nhìn Bình và Dưỡng. Trong một thoáng trao đổi, tôi biết Bình và Dưỡng có vẻ ngại ngùng. Riêng tôi, không hiểu sao, chỉ ngửi mùi thuốc lào, và nhìn phong dáng của người đàn ông, tôi thấy thân thiết và tin tưởng ông nhiều lắm, nên tôi nhìn Bình và Dưỡng gật đầu, tỏ dấu đồng ý. Người đàn ông giáng thêm một câu khiến Bình và Dưỡng thuận theo ý của tôi:
- Ngủ ngoài ga công an thành phố hay hỏi giấy tờ phiền phức lôi thôi lắm...
Nói đến đó, người đàn ông ném chiếc quẹt cho Dưỡng, rồi xoay lưng bước đi, sau khi nói ba chữ gọn lọn:
- Tớ tên Quy...
Tôi quay sang Bình và Dưỡng hỏi:
- Sao, đi theo lão hay ra ga?
Bình, Dưỡng ngần ngừ một chút, rồi Bình gật đầu:
- Theo thì theo, sợ quái thằng nào.
Cả ba chúng tôi rảo cẳng đi kịp ông Quy. So về tuổi tác, lúc đó cả ba chúng tôi chỉ đáng tuổi con ông ta. Nhưng thấy vóc dáng lè phè, ăn mặc lôi thôi, và lối xử thế lạ lùng, vừa ngang tàng bất cần đời, lại vừa có vẻ thân mật kiểu "mày tao", nên chúng tôi không biết gọi ông như thế nào. Hình như ông Quy cũng đoán biết được điều đó, nên nói ngay, và vẫn nói trống:
- Cứ gọi tớ là Quy. Lính cả mà.
Khác hẳn lúc trước ít nói, suốt đoạn đường từ đó về gần đến nhà, ông Quy nói chuyện huyên thuyên đủ thứ. Thì ra, đúng như tôi đoán, ông là người thiểu số, nhưng lâu ngày tôi không nhớ ông là người Thượng hay người Nùng. Gia đình ông trước sống ở Lào rất giầu có, có buôn rẫy nhà rông rất to. Ông sinh ra và lớn lên ở đó, nhưng vẫn thường xuyên qua đèo Lao Bảo sang Việt Nam buôn bán. Sau này, bố mẹ ông ngây thơ nghe mấy người Thái cộng sản ở vùng bắc Thái Lan dụ dỗ về Việt Nam "xây dựng đất nước", nên bán tất cả của cải rồi hồi hương. Chỉ mấy tháng sau đó, gia đình ông tỉnh ngộ thì đã muộn màng. Trong những năm máy bay Mỹ ném bom Miền Bắc, bố mẹ ông bị trúng bom chết trong khi tải đạn cho một đơn vị phòng không ở chân cầu Hàm Rồng. Ông có hai người anh, một "hy sinh" tại chiến trường Lào, một mất tích ở chiến trường Miền Nam đã 5, 6 năm, vẫn không nhận được tin tức gì. Ông còn có một người em gái, mới 16 tuổi đã "tình nguyện" đi "thanh niên xung phong", vì ở nhà "nó nhớ bố mẹ quá chịu không nổi, rồi nó cũng..." Nói đến đó, giọng ông xúc động, đẫm nước mắt... Ông nói cố thêm mấy tiếng, tôi nghe không rõ, chỉ nghe được có hai chữ "hy sinh"... Từ đó cho đến khi về đến nhà, ông im lặng không nói. Chúng tôi cũng không ai hỏi. Đi đằng sau ông, tôi thấy ông cúi đầu, hai vai run run. Thỉnh thoảng, ông lại hỉ mũi... Chắc ông xúc động lắm, đau lòng lắm,... tôi nghĩ.
Sau "vài tầm dao", nguyên văn tiếng gọi của ông, chúng tôi tới nhà ông. Ông giải thích, mỗi "tầm dao" là một đoạn đường tay cầm dao thấy mỏi, chuyển sang tay kia. Tôi ước lượng từ ga đến nhà ông đi mất hơn một tiếng, dài khoảng 5 cây số. Tốâi đó, trăng sáng như ban ngày, nên vạn vật tôi nhìn thấy rất rõ. Nói là nhà, thực ra đó là một túp lều, lợp bằng tranh, làm bằng tre, nứa gỗ lấy từ rừng, chung quanh có đắp những tảng đá. Ngay cạnh nhà là một chiếc hầm trú ẩn hình chữ A, vài hố trú ẩn cá nhân, một đoạn giao thông hào chạy ngoằn nghèo hướng về phía ngọn đồi xa xa. Phía bên trái căn nhà có năm nấm mồ tuy sơ sài cùng cây cỏ, nhưng chắc chắn vì nấm mồ nào cũng được đắp kín bằng những tấm đá đẽo vuông vắn.
Chỉ mấy nấm mộ, ông Quy nói:
- Đó, mộ bố mẹ tôi, hai ông anh và con em gái tôi đó. Mất tích mà đến giờ này không được tin tức gì thì cũng phải có ngôi mộ để vong linh đỡ tủi...
Cạnh mấy nấm mộ là những bụi chuối xúm xuê. Riêng nấm mộ cuối cùng được bao bọc kín bằng hoa mười giờ. Tôi đoán, đó là mộ em gái ông. Đang tính hỏi, thì ông nói ngay:
- Em tôi nó thích hoa mười giờ. Đi đâu cũng phải có một bông cài lên tóc. Sau nó chết đúng 10 giờ sáng. Nói không ai tin, nhưng hàng xóm láng giềng ở đây ai cũng biết. Mà nó linh lắm, nó vẫn hiện về gặp tôi hoài đó, mấy anh tin không?
Chỉ về phía ngọn đồi ở xa xa, nơi giao thông hào hướng tới, ông Quy nói:
- Ngọn đồi đó trước là của một đơn vị bộ đội tên lửa phòng không. Chung quanh là những ụ cao xạ. Chỉ có ụ tên lửa là có bộ đội thôi. Còn mấy ụ cao xạ là toàn người trong làng. Phụ nữ, bô lão, thanh niên nam nữ, rồi cả thiếu nhi nữa, tất cả đều phải chạy ra đó "chống Mỹ" mỗi khi có kẻng báo động. Cho có tinh thần vậy mà. Chết một đống còn hơn sống một mống...
Trong nhà không có bàn ghế gì. Chỉ có một chiếc chõng tre nằm gọn một góc. Chung quanh nhà được ghép bằng những tấm gồ xù sì, được xẻ từ cây rừng, không bào gọt, đục đẽo. Cửa chính là một tấm phên nứa. được chống lên bằng một khúc tre. Trên tường gỗ có dán một tấm giấy to bằng tờ báo Nhân Dân. Tấm giấy đã ố vàng, nhưng tôi vẫn còn đọc thấy rõ hàng chữ in lớn trên đầu tờ giấy "Một số hiểu biết thông thường về phòng không nhân dân". Phía dưới dòng chữ là những hình ảnh hai chiều đơn giản hai loại máy bay Mỹ, một số loại bom thông thường, và những chỉ dẫn cách thức dùng súng các loại, bắn máy bay Mỹ vào những điểm yếu... Bên cạnh bức tranh, trên những tấm gỗ là những bức vẽ bằng phấn hình hai chiếc máy bay đang bay, và đường đạn bắn từ dưới lên, trúng ngay bụng một chiếc phi cơ, làm cho nó bốc cháy. Ở góc nhà, có một chiếc kệ bằng tre, trên đặt một chiếc máy bay Mig bằng nhôm nhỏ, dài hơn một gang tay.
Sau này, Quy kể cho chúng tôi biết, đó là vật kỷ niệm cuối cùng của người em gái Quy. Chiếc máy bay đó là của một người bộ đội ở đơn vị tên lửa trên đồi tặng cho em gái Quy trước khi anh ta chết. Mai (tên em gái Quy) khi lên đường đi thanh niên xung phong đã gửi chiếc máy bay đó lại cho Quy. Tuy có rất muốn mang kỷ vật của người bộ đội theo bên mình, nhưng vì sợ mất, nên cô đã gửi lại cho người anh với lời dặn dò, nếu cô còn sống trở về thì thôi, còn nếu cô chết thì phải chôn chiếc máy bay đó cùng với thân xác của cô...
Kể đến đó, ông Quy run run nói:
- Biết là nó đã chết, nhưng tôi không có xác nó mà chôn cùng, nên đành phải để chiếc máy bay đó mà chờ... Chờ đã hơn 7 năm rồi...

KỲ  30

Tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại nhà của ông Quy và nghe ông kể về những bi kịch gia đình ông đã trải qua trong suốt thời gian từ 1965 cho đến 1975. Từ những chết chóc của những người thân trong gia đình ông cho đến những mất mát vô phương hàn gắn của làng xóm nơi ông ở. Nghe chuyện của ông, tôi biết rằng, trong suốt thời gian mấy chục năm qua, trên quê hương Việt Nam, những mất mát của ông cũng là mất mát chung của hàng triệu gia đình Việt Nam. Và mất mát nào cũng đau khổ, bi thương, đầy máu và nước mắt. Nhưng có điều lạ lùng, trước những mất mát tang thương đó, ông Quy không hề "căm thù Mỹ ngụy" như phần đông những người dân Miền Bắc bị cộng sản tuyên truyền. Có lẽ cuộc sống của ông ở Lào, cùng những chuyến đi buôn bán ở bên kia biên giới và mối quan hệ với người Thái Lan đã giúp ông nhìn ra bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc xâm lăng của cộng sản Miền Bắc đối với Miền Nam. Chúng tôi còn ngạc nhiên hơn khi ông cho biết, tương lai người dân Việt Nam còn khốn khổ dài dài, vì cả nước sẽ phải "thắt lưng buộc bụng" để lấy gạo trả nợ cho Trung cộng. Ông cũng kể cho chúng tôi nghe, trong thời gian chiến tranh, khi Trung Cộng không còn viện trợ gạo cho Hà Nội, cả làng của ông đã phải làm những vỏ bao gạo giả có in chữ Trung Cộng, để giữ cho lòng người Miền Bắc khỏi hoang mang như thế nào. Ông Quy cũng tâm sự với chúng tôi về những ân hận hối tiếc của cha mẹ của ông khi nghe lời tuyên truyền của cộng sản, cho gia đình "hồi hương xây dựng đất nước". Ông Quy sống không vợ con. Chỉ một thân một mình lủi thủi cùng với một con chó mực và cả một quá khứ đau xót, đầm đìa nước mắt và kỷ niệm lúc nào cũng trĩu nặng trên hai vai. Ông Quy chỉ là người thiểu số, nhưng với sự từng trải và hiểu biết, ông đã đoán ra chúng tôi là ai ngay khi gặp chúng tôi trong quán ăn.
Hôm nay, tôi viết những dòng chữ này về ông Quy vì tôi muốn gửi gắm tới qúy độc giả một sự thực, ở Miền Bắc, trong cuộc sống khốn khổ, thiếu thốn và đói khát, lại bị cộng sản tuyên truyền nhồi sọ ngày đêm, nhưng vẫn có rất nhiều người, rất nhiều tấm lòng không hề bị nhuộm đỏ. Những người đó vẫn hướng tới Miền Nam tự do với lòng hy vọng trong suốt 20 năm. Rất tiếc, vì đất nước mình nhỏ bé, nên bị nhào nặn trong bàn tay nghiệt ngã của định mệnh, nên sau 20 năm chiến tranh, cuối cùng cộng sản chiếm được Miền Nam, khiến cho mọi hy vọng được người dân Miền Bắc âm thầm ấp ủ suốt thời gian dài, cuối cùng đều tan vỡ...
Tuy thời gian nghỉ lại nhà ông Quy chỉ có một đêm, nhưng không hiểu sao từ đó cho đến nay, suốt mấy chục năm trôi qua, tôi vẫn nhớ đến ông, nhớ đến chiếc điếu cầy ông hút, nhớ những nấm mồ bên cạnh nhà, trong đó có nấm mồ trồng đầy hoa mười giờ mà trong lòng một thì trống không. Tôi không biết đến bây giờ, trong lòng ngôi một đó đã có được chiếc quan tài, ấp ủ thân xác người em gái của ông hay chưa, hay chiếc máy bay nhỏ kỷ vật xưa, vẫn còn cô đơn trên chiếc kệ tre ở góc nhà...
* * *
Khoảng trung tuần tháng 5, chúng tôi đến Hà Nội an toàn. Mặc dù suốt chặng đường từ Vinh ra đến Hà Nội, chúng tôi bị hỏi giấy tờ nhiều lần, nhưng lần nào cũng trót lọt. Với khoa học kỹ thuật của Miền Nam, những giấy tờ giả mạo do Bình làm đã qua mắt dễ dàng mạng lưới an ninh của Miền Bắc.
Khi chuyến tàu tiến vô ga Hàng Cỏ, Hà Nội, tôi rất nôn nóng, muốn chắp cánh bay ngay về nhà của mẹ tôi. Tôi không biết trong mấy năm qua, cuộc sống của mẹ tôi ra sao. Vì trong những năm tháng ở Miền Nam tự do, tôi đã công khai viết bài tố cáo những tội ác của chế độ cộng sản; đã lên đài kể lại những bi kịch do cộng sản gây ra trên quê hương Miền Bắc; với tất cả tên tuổi thật, địa chỉ thật của mình, nên tôi biết, khi tôi trở lại Miền Bắc, tôi sẽ phải đối diện với rất nhiều nguy hiểm. Tôi biết, tôi không thể về thẳng quê nhà và cũng không thể về ngay nhà của mẹ tôi.
Trải qua nhiều chục năm, chế độ độc tài chuyên chế của cộng sản tại Hà Nội đã tạo nên cả một mạng lưới an ninh bao trùm đời sống của người dân, thâm nhập vô mỗi gia đình, nên không một ai dám tin ai, ngay cả bằng hữu, ruột thịt trong nhà. Thêm vào đó, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, đói khát kinh niên của người dân Miền Bắc phải thường xuyên và vĩnh viễn tùy thuộc vào chế độ tem phiếu của nhà nước, đã khiến cho mỗi gia đình, mỗi người lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không dám làm trái ý đảng, trái ý nhà nước để rồi mang họa đến cho những người thân yêu. Vì vậy, có thể nói, sau 30 tháng 4 năm 1975, trong những năm tháng phải sống ngoài vòng pháp luật, bị săn đuổi như một con thú, tôi luôn luôn thấy bình an, tự tin như cá bơi trong nước, khi tôi được ở trên lãnh thổ của Miền Nam. Trái lại, trên đất Bắc, tôi luôn cảm thấy lo sợ, hoảng hốt như cá bị mắc cạn.
Ngay cả sau này, khi trốn khỏi trại cải tạo Kà Tum, trên đường trở về Sàigòn, tôi luôn luôn được gặp những tấm lòng vàng của người dân Miền Nam. Mỗi khi gặp hoạn nạn, tôi nói thật tôi là tù cải tạo trốn trại, lập tức tôi được mọi người giúp đỡ tận tình, không nề hà nguy hiểm đến bản thân. Tôi còn nhớ, khi vừa trốn khỏi trại cải tạo, đi bộ suốt đêm về đến thị trấn Dầu Tiếng vào buổi sáng sớm tôi có ghé một quán nước cách bến xe khoảng vài trăm thước. Khi được tôi cho biết, tôi là tù cải tạo trốn trại, cô chủ quán đã nhất định không chịu lấy tiền tô phở và ly cà phê. Không những thế, cô còn cho tiền và chỉ cho tôi cách đón xe đò về Bình Dương, khỏi bị công an xét hỏi. Cô khuyên tôi đừng có vô bến xe, mà nên đứng đợi ở dọc đường rồi vẫy xe đò.
Rồi khi tôi lên được xe đò, vì mới trốn trại, không có bất cứ giấy tờ gì, mà trạm kiểm soát ở Bến  Cát thì vô cùng nguy hiểm, nên trong nỗi lo sợ, tôi đánh liều nói thật cho mấy chị đi buôn ngồi cạnh biết tôi là tù cải tạo vừa trốn trại. Nghe xong, các chị liền nói bô bô cho tất cả mọi người trong xe biết. Lập tức cả chiếc xe đò nhốn nháo, mỗi người mỗi ý, ai ai cũng muốn giúp đỡ tôi. Lúc đó tôi nhớ là vừa nghỉ hè, nên có mấy nam nữ giáo viên, tuổi còn rất trẻ trên xe. Sau một hồi bàn bạc rôm rả, ầm ĩ của tất cả mọi người, kể cả tài xế lẫn lơ xe, tôi được các bà đẩy vào tận phía trong cùng ngồi, rồi các bà bắt tôi phải cởi áo ngoài, chỉ mặc có một chiếc áo lót lấm lem dầu mỡ của người lơ xe. Kế đó, tôi được một chị trao cho một em bé khoảng trên dưới một tuổi, bắt tôi phải bế, kèm theo một bình sữa. Mọi người dặn tôi, khi đến Bến Cát, cứ ngồi nguyên trên xe, để các bà các cô lo liệu. Sau đó, các chị còn chuẩn bị sẵn "tiền lì xì" để dúi tay mấy nhân viên an ninh nếu chúng nó muốn làm khó dễ... Tôi ngoan ngoãn làm theo sự chỉ dẫn của mọi người, và trong thời gian chớp nhoáng, tôi cảm thất thật an toàn và tự tin trong tấm lòng của người dân Miền Nam. Quả nhiên, khi đến Bến Cát, cửa sau xe mở ra, bóng vài người bộ đội đeo súng AK vừa thấp thoáng, đã bị các bà các cô xúm xít "đon đả chào đón tận tình", nên chẳng một tên bộ đội nào thèm hỏi giấy tờ của tôi....
Ngồi sâu trong xe, một tay bồng em bé khóc oe oe, tay kia cầm bình sữa cố nhét vô miệng để dỗ cho đứa bé nín, tai nghe các bà các cô đưa mấy anh cán ngố vào xiếc một cách dễ dàng, tôi mới nhận ra, người phụ nữ Việt Nam, bất kể họ là ai, già hay trẻ, cũng đều thông minh tuyệt vời, và sẵn sàng hy sinh để cứu vớt những kẻ cô thế, đùm bọc những người gặp hoạn nạn. Hãy nói thật với họ những nguy hiểm bạn đang đối diện, những khó khăn bạn đang gặp phải, chắc chắn bạn sẽ được giúp đỡ tận tình, dù họ là mẹ, là vợ, là chị em của bạn, hay chỉ là một người dưng tình cờ gặp gỡ ở một nơi nào đó... Đối với người phụ nữ Việt Nam, bạn đừng bao giờ nói dối họ, thì bạn sẽ không bao giờ gặp hoạn nạn, khó khăn, hay khổ đau...
Xế trưa hôm đó, khi xe về đến thị xã Bình Dương, mấy thầy cô giáo còn mời tôi một bữa ăn ngon lành. Trong khi tôi ăn, các cô giáo còn xách mấy bao gạo được nhà trường trả lương, đem đi bán, lấy tiền đưa cho tôi. Cầm tiền của các cô, tôi ứa nước mắt vì xúc động... và tôi không nói nên lời. Từ đó đến nay, trong suốt mấy chục năm trời, tôi vẫn nhớ mãi những con người với tấm lòng vàng mười trên chuyến xe đó từ Dầu Tiếng về Bình Dương. Tuy chẳng nhớ rõ được một gương mặt nào, một cái tên gọi nào, hay một địa chỉ nào, nhưng mỗi khi nhớ đến những kỷ niệm của ngày đó, tôi vẫn thấy trinh nguyên những bóng dáng ấy, những bàn tay ấy, thấp thoáng trong tâm trí, cùng với những xúc động cũng trinh nguyên như thuở nào của 31 năm về trước....

KỲ  31

Mẹ của tôi sống rất nghèo và cô đơn trong một căn nhà chật chội, nằm trong một căn hẻm nhỏ ở Hà Nội. Như tôi đã thưa chuyện cùng các bạn, khi Mẹ của tôi ghé thăm tôi năm tôi mới lên 7, lên 8 tuổi, tôi đã không chịu nhận Mẹ, không chịu gọi Mẹ một tiếng "Mẹ ơi!", chỉ vì tôi bị những người lớn sống trong cùng một gia đình tiêm nhiễm vào đầu óc tôi đủ thứ chuyện, nên tôi tin Mẹ của tôi đã bỏ tôi khi tôi còn đỏ hỏn.... Trong những năm tháng sau này, và ngay cả đến bây giờ, hình ảnh Mẹ của tôi đi trong buổi trời chiều, khi gió lộng thổi, mặt nước sông sóng vỗ từng đợt, vẫn còn để lại trong lòng tôi những nỗi xúc động trinh nguyên của ngày nào. Cùng với thời gian, trải qua những va chạm trong cuộc sống, và nhất là qua những lời kể của thầy, tôi dần dần hiểu được những hoàn cảnh éo le, đau khổ đến quằn quại, ướt đẫm nước mắt mà Mẹ đã phải chịu đựng khi yêu thầy của tôi, khi mang bầu tôi và khi sanh ra tôi. Chính trong nỗi niềm đầy ân hận và xót xa thương cảm dành cho Mẹ, sau này tôi đã cố gắng tìm Mẹ, nhưng không thành công. Cuộc sống thiếu thốn, đói khổ ở Miền Bắc, đối với một người con trai nhỏ bé như tôi, ngay đến củ khoai hà, ngọn rau muống còn là sự khao khát, thèm thuồng, thì làm sao tôi có đủ điều kiện và tiền bạc để đi tìm Mẹ.
May mắn, đến năm 16 tuổi, tôi tình cờ quen một người bạn học, quê ở thị xã Phủ Lý. Thân phụ của người bạn, từng trọ học ở nhà tôi trong những năm trước 1945, nên qua câu chuyện với một số bạn bè ở quê ngoại của tôi, người bạn đó biết được Mẹ ruột của tôi có một người con với cụ Xếp Văn là thầy của tôi. Từ những câu chuyện tình cờ giăng mắc với những người bạn, con cháu của bên ngoại, những buổi gặp gỡ xa gần xúc động đầy nước mắt, cuối cùng tôi biết Mẹ của tôi đang sống ở Hà Nội. Trong những năm tháng đó, máy bay Mỹ thường xuyên ném bom Miền Bắc, nên trường học của tôi phải "sơ tán" về vùng thôn quê ở gần Đọi Đệp, là quê ngoại của tôi. Hà Nội lúc đó đang là mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ, nên tôi không biết làm cách nào để kiếm ra tiền đi thăm Mẹ; và không biết Mẹ có còn sống ở Hà Nội hay đã đi "sơ tán"... Biết được những khó khăn, thiếu thốn của tôi, một số người bạn học đã gom góp tiền đưa cho tôi, rồi sẵn sàng cho tôi mượn xe đạp để tôi đi thăm Mẹ. Ôi, những tấm lòng đầy ân nghĩa của tình bạn tuổi học trò... khiến tôi nhớ mãi. Trong suốt những năm tháng sau này, mỗi khi nhớ đến những nghĩa cử đó, tôi lại thấy bồi hồi rung cảm. Thì ra, trong cuộc sống, càng thiếu thốn, khốn khó bao nhiêu, con người càng có cơ hội thể hiện lòng nhân ái nhiều hơn, yêu thương nhau hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn.
Giữa lúc tôi đang chuẩn bị đi thăm Mẹ, thì một ngày nọ, vào giữa buổi trưa hè nắng oi ả, Mẹ của tôi đến trường thăm tôi. Phần ngại hoàn cảnh trọ học của tôi, phần có lẽ Mẹ của tôi có những nỗi ngại ngùng riêng tư nào đó, tôi không biết, Mẹ từ chối không chịu vào nhà trọ của tôi. Vì vậy, tôi theo Mẹ ra một bụi tre cạnh bờ sông Châu, và tại đó, hai Mẹ con tôi tâm sự... Cho đến hôm nay, tôi vẫn không nhớ rõ, trong buổi gặp gỡ đó, Mẹ của tôi đã nói những gì, tôi đã nói những gì, nhưng tôi chỉ nhớ mãi có một điều, trong buổi tâm sự trưa hôm đó, Mẹ chỉ có khóc.... Mẹ tôi khóc hoài, khóc không thành tiếng, nhưng nước mắt của Mẹ cứ ứa ra, chảy dài trên hai gò má... Mẹ lấy khăn lau, nhưng lau vừa xong là nước mắt lại giàn giụa... Bây giờ, khi ngồi viết những dòng chữ này, hình ảnh Mẹ của tôi với những dòng nước mắt và cặp mắt giàn giụa nỗi thương đau vẫn hiện về rõ rệt như ngày nào tôi đang ngồi trước mặt Mẹ... Lúc đó, tôi muốn được gục vào lòng Mẹ của tôi mà thổn thức, tôi muốn ôm lấy Mẹ để khóc oà lên như những người con khi gặp mẹ mà tôi vẫn thấy trong phim hay tôi thường tưởng tượng khi đọc truyện. Vậy mà không hiểu sao, trong lòng thì muốn vậy, nhưng tôi không làm được như vậy... Tôi ngồi đó, đau xót và bất lực nhìn Mẹ của tôi khóc... bằng cặp mắt ráo hoảnh của mình, để rồi ngay tối hôm đó, và từ đó về sau, mỗi khi nhớ tới những giọt nước mắt của Mẹ vào buổi trưa hè bên giòng sông Châu, tôi lại rưng rưng lệ... trong niềm xúc cảm sâu lắng. Ngay cả bây giờ, khi ngồi đánh máy những dòng chữ này vào buổi sáng của ngày Thứ Tư, sau một đêm dài thức trắng, nỗi niềm xúc động trong lòng tôi dành cho Mẹ vẫn như ngày nào của ngót 40 năm về trước...
Trong những năm tháng sau đó, tôi và bạn bè của tôi thường xuyên ghé thăm Mẹ vào dịp nghỉ hè. Tuy những dịp thăm viếng Mẹ như vậy không nhiều, mỗi năm chỉ một, hoặc hai lần, nhưng tôi được sống những giờ phút thật hạnh phúc của một người con có Mẹ, được Mẹ chăm sóc. Tôi còn nhớ, có những buổi sáng sớm, tôi thức dậy, nhưng vẫn nằm trong giường đọc sách. Khi Mẹ bước vô, sợ Mẹ la đọc sách trong mùng, nên tôi giả vờ nằm ngủ... Khi đó, tôi thấy bóng dáng thấp thoáng của Mẹ, đi ra đi vô, dọn dẹp đồ đạc trong phòng, hay chuẩn bị đồ ăn sáng cho tôi...
Tuy được sống trong hạnh phúc của tình Mẫu Tử, tôi ít khi tâm sự với Mẹ, ít khi ngồi nghe Mẹ kể chuyện... vì mỗi khi Mẹ tôi trò chuyện với tôi là Mẹ lại khóc. Không hiểu từ bao giờ, bắt đầu từ lúc nào, nhưng đã lâu lắm, ngay từ khi mới được đoàn tụ với Mẹ không lâu, tôi đã có ấn tượng, cuộc đời của Mẹ là cả một giọt nước mắt khổng lồ, là những giòng nước mắt nối nhau chảy bất tận... Từ cuộc đời khốn khó đầy đau thương và nước mắt của Mẹ, tôi đã trưởng thành, bước vào đời với một tấm lòng đa sầu, đa cảm, dễ "thương vay, khóc mướn" trước những đau khổ của người dưng, của nhân thế. Tôi hiểu được muôn vàn nỗi khó khăn chật vật, cùng những khổ đau, hy sinh tận tụy của những người vợ, người mẹ Việt Nam dưới muôn vạn mái nhà, trên muôn vạn nẻo đường của đất nước. Tôi xót xa trước những đắn đo mua sắm từ bó rau, con cá, những thao thức giật gấu vá vai, thu vén gia đình, cho chồng con hạnh phúc, của hàng triệu người mẹ, người vợ Việt Nam, sống trong thiếu thốn đói khổ, chịu đựng muôn phần cơ cực tại hàng vạn vạn làng quê Miền Bắc...
Qua cuộc đời đầy éo le và nước mắt, cô đơn và xót xa của Mẹ, tôi hiểu được những oan trái khổ đau người phụ nữ Việt Nam thường phải gánh chịu từ khi lớn lên cho đến khi yêu đương, được làm vợ, làm mẹ. Thêm vào đó, văn hóa Việt Nam, đạo lý vợ chồng của nền văn minh cửa Khổng sân Trình, quan niệm chồng chúa vợ tôi, cộng với đời sống thiếu thốn trăm bề của gia đình Việt Nam, đã khiến người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu thêm nhiều hy sinh, đau khổ... so với phụ nữ ở các quốc gia khác. Qua những trang sách tả thực của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Hồ Dzếnh, Mai Thảo, Nhã Ca, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ... tôi thấy lòng mình thực sự rung động, trước những thân phận éo le của các nhân vật, điển hình cho nỗi khổ đau chồng chất và muôn phần đa dạng của người phụ nữ Việt Nam...
Trong những năm tháng sau 30-4-1975, cùng với sự chiếm đóng Miền Nam, người cộng sản còn gieo rắc lên muôn vạn mái nhà, muôn vạn cuộc đời phụ nữ Miền Nam hàng triệu nỗi khổ đau, trong đó có nỗi khổ đau chờ chồng, nuôi chồng trong trại tù cải tạo. Sau này, khi đọc bài thơ Ta Về của nhà thơ Tô Thùy Yên, tôi đã vô cùng xúc động khi đọc tới đoạn mô tả tình cảm của tác giả, một người đi tù cải tạo sau 10 năm trở lại nhà, dành cho người vợ thương yêu, đầu gối tay ấp, thủy chung chờ chồng:
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy.
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

Ta về dầu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.
Mấy năm trước, khi lần đầu được đọc bài thơ Ta Về, trong lòng tôi vừa xúc động, vừa biết ơn thi sĩ Tô Thùy Yên vô cùng, vì những câu thơ của ông đã đánh thức trong lòng tôi những xúc cảm kỳ diệu của tình yêu thương, lòng tri kỷ, sự hy sinh... dành cho nhau trong tình vợ chồng khi ly biệt. Câu thơ "Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu" có một sức mạnh gợi tưởng huyền diệu, giúp người đọc thức ngộ được những giao thoa kỳ diệu của nỗi đau với niềm vui, của ly biệt với đoàn tụ, của khổ đau với hạnh phúc... Rồi trong khổ thơ sau, thi sĩ Tô Thuỳ Yên cũng giúp người đọc, nhất là những người tù cải tạo, hiểu được những khổ đau chất ngất, những thao thức, trăn trở bất tận của những người vợ có chồng đi tù cải tạo: "Đau khổ riêng gì nơi gió cát. Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm."

KỲ  32

Ngồi trên xe lửa, trên đoạn đường từ Nam Định, qua Phủ Lý, đến Hà Nội, lòng tôi ngổn ngang trăm mối khi nhìn thấy những hình ảnh thân quen vùn vụt trôi qua cửa sổ. Bao kỷ niệm được đánh thức, bao nhân dáng thấp thoáng hiện về, để rồi tôi đau xót khi thấy quê hương, đất nước của tôi vẫn nghèo nàn, khốn khổ; thân nhân bằng hữu của tôi vẫn mãi mãi chìm ngập trong cuộc đời giật gấu vá vai, khốn khó về vật chất, đoạ đầy về tư cách, mỏi mòn về nhân phẩm. Bây giờ, cùng với chiến thắng của người CS sau 30-4-1975, biết bao hy vọng mỏng manh của người dân Miền Bắc sẽ bị dập tắt; bao tấm lòng thao thức hướng vô Miền Nam trong suốt bao nhiêu năm qua, nay sẽ phải nghẹn ngào nhắm mắt... Lúc đó, tôi không hề biết, trong suốt 31 năm sau 1975, tổ quốc của tôi, dân tộc của tôi sẽ phải chịu đựng muôn vàn nỗi trầm luân, khổ cực, hàng trăm ngàn người sẽ bị đầy ải trong trại cải tạo, hàng triệu người phải đi vùng kinh tế mới, hàng chục vạn người sẽ chết biển cả, trong rừng sâu, những cô gái Miền Nam hồn nhiên, chất phác như hoa rừng cỏ nội, sẽ phải bỏ cha mẹ, bỏ quê hương đi làm vợ những người đàn ông què cụt, không cùng ngôn ngữ ở khắp các quốc gia trong vùng Á châu, những em bé sẽ bị chế độ CS xuất cảng sang ngoại quốc làm điếm... Thời điểm tháng 5 năm 1975, tất cả những chuyện đau khổ đó chưa xảy ra, nhưng tôi, một thanh niên mới 24 tuổi đầu, với kinh nghiệm cha truyền con nối về chế độ CS, cộng với những gì tôi học hỏi được ở Miền Nam tự do, đã cho tôi biết, cùng với chiến thắng của CS và cái gọi là "hào quang thống nhất đất nước" bao trùm lên cả nước, tổ quốc của tôi, dân tộc của tôi đang bắt đầu bước vào một bóng đen dầy đặc của một đêm dài thời trung cổ... Và cùng với nỗi bất hạnh của tổ quốc, của dân tộc, cuộc đời của tôi cũng sẽ trải qua những nỗi đau đớn, nghẹn ngào, đầy máu và nước mắt...
Tôi biết, với quá khứ của một người bộ đội hồi chánh, một tên "phản bội tổ quốc", tôi sẽ không thể nào sống nổi trong chế độ cộng sản. Tôi biết hình phạt duy nhất dành cho tôi là nhà tù, trường bắn. Vì vậy, trong thâm tâm, ngay từ khi hiểu rõ chế độ CS, tôi đã có một quyết tâm, bằng bất cứ giá nào, tôi cũng phải thoát khỏi chế độ cộng sản vô nhân, cái chế độ chỉ biết dậy con người thù hận, căm ghét, đập phá. Để thoát khỏi cái chế độ bất nhân cộng sản, tôi sẵn sàng chấp nhận đánh đổi mạng sống của mình, vì thà tôi chết trên con đường chạy trốn cộng sản, cái chết của tôi còn có ý nghĩa hơn là tôi tiếp tục sống kiếp nô lệ trong chế độ cộng sản. Mang trong lòng quyết tâm ấy, cộng với những ảnh hưởng của tác phẩm Ruồi Trâu, ngay từ những năm cuối thập niên 1960, tôi đã tìm đến cảng Hải Phòng, tính chuyện chui xuống một chiếc tàu hàng nào đó, như Ruồi Trâu đã làm, để trốn khỏi Việt Nam. Thực ra, chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm của tôi đáng lẽ thành công, nếu không vì một bữa cơm với cá rô chiên tại nhà một người bạn tôi quen ở bến cảng... Cũng vì mang trong lòng quyết tâm ấy, nên trước ngày vô Nam, từ trong chỗ đóng quân ở sâu trong rừng thẳm của tỉnh Quảng Bình, tôi đã trốn đơn vị để về thăm Thầy, Mẹ tôi lần cuối, để rồi sau đó, ngay khi đặt chân đến lãnh thổ Miền Nam chưa đầy một tháng, từ động Ông Đô ở phía tây Quảng Trị, tôi đã nhằm thẳng vùng ánh sáng của thị xã Quảng Trị, cắt một đường thẳng băng, trở về hồi chánh với chính phủ VNCH... Và bây giờ, sau 1975, khi Miền Nam lọt vào tay cộng sản, tôi cũng chỉ còn có một con đường duy nhất: Phải trốn khỏi chế độ CS bằng bất cứ giá nào, cho dù tôi có chết trên đường trốn chạy. Nhưng trước khi vĩnh biệt quê hương, tôi muốn một lần cuối gặp lại Thầy, Mẹ; lần cuối nhìn lại quê hương cùng những người thân yêu của tôi. Đó là lý do khiến tôi trở lại Miền Bắc trong chuyến đi vô cùng nguy hiểm này.
Như tôi đã thưa với các bạn, trong thời gian sống trên vùng đất của Miền Nam tự do, tôi đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm để người dân Miền Bắc, trong đó có bằng hữu và những người thân của tôi, hiểu rõ sự thực cùng bản chất của cuộc chiến tranh xâm lăng do CS Hà Nội chủ xướng. Để làm được điều đó, tôi đã viết bài, với tên thật, địa chỉ thật; gửi những người thật, địa chỉ thật ở Miền Bắc; và chính tôi đã đọc những bài viết đó trên đài VOA trong suốt thời gian dài mấy năm trời. Vì vậy, ở quê hương của tôi, cả xã, huyện, tỉnh, đều biết tôi là một tên "đầu hàng địch", một thằng "phản bội tổ quốc". Nay tôi phiêu lưu trở về chắc chắn tôi sẽ phải đối diện với thật nhiều nguy hiểm, vì trong số những người quen biết tôi, chỉ có rất ít là những người tôi có thể tin tưởng.
Ngay khi xuống ga Hàng Cỏ, lòng tôi nôn nóng chỉ muốn về ngay nhà để thăm Mẹ. Tôi biết, sau gần 5 năm trời xa cách, Mẹ tôi chắc đã già đi nhiều. Mái tóc của Mẹ chắc có thêm nhiều sợi bạc, lưng của Mẹ cũng đã còng thêm... Trong suốt những năm sống ở Miền Nam, mỗi khi nhớ Mẹ, tôi lại nhớ đến giàn mướp, giàn hoa thiên lý mẹ trồng. Tôi nhớ cả chuồng heo, có con heo thiệt to, Mẹ tôi nuôi để sau này bán lấy tiền cho tôi cưới vợ. Tôi nhớ cả bức tường loang lổ, con hẻm chật hẹp, hôi hám mỗi khi đẩy chiếc cổng gỗ ọp ẹp bước vô nhà của Mẹ... Tôi không biết tất cả những hình ảnh đó, những kỷ vật đó, cái nào còn cái nào mất. Thời gian và cuộc sống khốn khó, đói khát trên đất Bắc, khiến tất cả đều bấp bênh, mờ ảo, không có gì là thực.
Nhưng dù tha thiết muốn về nhà, tôi vẫn lo ngại vì nhà của Mẹ tôi ở ngay cạnh nhà của một tay công an. Đó là căn nhà khá lớn, đất rộng gấp bốn, gấp năm lần nhà tôi. Giữa hai nhà chỉ có một hàng rào dâm bụt, thấp đến ngang ngực, nên ngồi chơi ở sân nhà bên này, nhìn rõ mọi chuyện ở sân nhà bên kia. Trong những năm tháng trước khi vô Nam, mỗi khi ghé thăm Mẹ, tôi đều thấy tay công an đi ra đi vô, và có đôi lần, chúng tôi gặp nhau ngay cổng, thậm chí có khi còn chào hỏi nhau một đôi câu. Tôi không biết, tay công an đó có biết gì đến việc tôi hồi chánh hay không. Nhưng dù sao, tôi không thể vội vàng ghé thăm Mẹ tôi, lỡ chẳng may gặp tay công an đó ngay cửa, và tay công an đó biết rõ lý lịch của tôi, thì sẽ vô cùng nguy hiểm cho tôi và cả Mẹ của tôi nữa. Vì vậy, sau khi suy nghĩ thiệt kỹ, tôi quyết định ghé thăm nhà bà chị ở phố Huế trước, tìm hiểu tình hình, thấy thuận tiện thì sẽ ghé thăm Mẹ, sau đó sẽ về thăm Thầy.
Thầy tôi có tất cả 5 người con gái đầu lòng. Vì không có con trai nên lấy thêm vợ hai, được có một người con trai, thấy không đủ bảo đảm có người nối dòng dõi, duy trì hương lửa sau này, nên Thầy tôi lấy thêm vợ ba, đẻ được ra tôi. Người chị gái ở phố Huế là con dâu của ông Tổng Tu, người vẫn thường cùng với Thầy tôi lén lút nghe đài BBC mỗi khi Thầy tôi ghé thăm. Ông Tổng Tu có 3 người con trai và một người con gái. Người con trai cả cũng lấy một người chị của tôi, và cả hai vợ chồng đã vô Nam năm 1954, sống ở Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Người con trai thứ hai lấy người chị thứ ba của tôi, và cả hai vợ chồng đều ở lại Hà Nội. Người con trai út cũng vượt tuyến vô Nam ngay từ năm 1957, 1958, và được chỉ huy một trung đội lính bảo vệ Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè.
Người chị ở phố Huế là một người rất tháo vát, can đảm và tự tin. Tuy ông Tổng Tu, bố chồng của chị là người bị ghép tội "tư sản mại bản", và bố ruột thì bị ghép tội địa chủ, lại có các anh chị, bên chồng cũng như bên mình,"chạy vô Nam theo đế quốc", nhưng trong thế cùng đường của một người mẹ, người vợ phải gánh vác cả gia đình chồng, chị coi tụi cán bộ cộng sản từ thằng to đến thằng nhỏ không ra kí lô gì. Tôi đã từng nghe Thầy tôi kể rất nhiều chuyện can đảm và khôn ngoan của chị khi chị đối đáp với cán bộ cộng sản. Sau này, khi đọc những bài viết chửi cộng sản của bà Dương Thu Hương, không hiểu sao tôi cứ liên tưởng đến người chị ở phố Huế của tôi. Trong số những câu chuyện Thầy tôi kể, tôi nhớ nhất chuyện chị tôi chửi tụi cán bộ cải cách ruộng đất vào năm 1956, hay 1957, tôi không còn nhớ rõ.
Thời gian đó, gia đình tôi bị quy là gia đình địa chủ. Sau một thời gian, đội cải cách đã thu vét tất cả mọi của cải chìm nổi của gia đình tôi, chúng vẫn tin là Thầy tôi còn giấu rất nhiều của cải ở nhà con gái ở Hà Nội. Vì vậy, chúng quyết định trói Thầy tôi rồi giải lên Hà Nội, đến tận nhà chị của tôi ở phố Huế để moi tiền.
Sau khi bị tra khảo nhiều lần, trong thân phận của một người địa chủ, Thầy tôi không còn cách nào hơn, đành phải cho đội cải cách biết rõ địa chỉ của con gái, và chấp nhận để cho đội cải cách giải Thầy tôi lên gặp con gái lấy tiền về trả cho các "ông bà nông dân"....

KỲ  33

Dưới ánh náng chang chang của mùa hè và hơi nóng hầm hập bốc lên từ con đường nhựa, thầy tôi phải cởi trần, tay bị trói giật cánh khuỷu,  đi chân đất suốt từ ga Hàng Cỏ đến nhà chị tôi ở Phố Huế. Khi tới nhà của chị tôi, thầy cất tiếng gọi, nhưng cả nhà chị tôi lúc đó đang ở trên gác, nên không một ai nghe thấy. Tên đội cải cách liền lấy báng súng dộng vào cửa ầm ĩ. Chị tôi nghe thấy vội chạy ra balcony ngó xuống. Trong mấy phút đầu tiên, chị không hiểu chuyện gì xảy ra. Đến khi thầy tôi ngước mặt gọi tên tục của chị, "Châu con ơi!... Thầy đây!", chị tôi mới sửng sốt thốt lên, "Chúa ơi!..." Sau đó, chị vội chạy ngay xuống dưới nhà.
Vừa mở cửa, nhìn thấy thầy tôi lam lũ, lếch thếch, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chị liền nổi điên:
- Các anh là ai? Tại sao các anh lại trói thầy tôi như thế này?...
Tên đội cải cách ruộng đất liền to giọng nạt nộ:
- Chúng tôi là ai hử? Chúng tôi là cán bộ cải cách ruộng đất. Bố của cô là địa chủ có nợ máu với nhân dân nên chúng tôi phải trói ông ta lại...
Nghe tên đội nói vậy, tình cha con nổi lên, khiến chị tôi không còn biết sợ hãi là gì. Chị đưa tay chỉ thẳng vào mặt tên đội, rồi vừa hét vừa khóc:
- Tôi ra lệnh cho anh cởi trói thày tôi ngay! Thầy tôi có là địa chủ nợ máu với nhân dân hay với anh đi nữa, anh cũng không được quyền trói thày tôi đi nghênh ngang ở đường phố Hà Nội. Anh có biết đây là đâu không? Đây là Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam "dân chủ cộng hòa". Ở đây có không biết bao nhiêu tòa đại sứ, người ngoại quốc. Anh trói người rồi dong đi giữa ban ngày ban mặt thế này là anh bêu riếu "đảng và nhà nước ta", anh có biết không? Các anh là đồ phản động? Tụi ngoại quốc mà nó chụp được hình các anh trói người dong đi giữa đường phố Hà Nội rồi chúng gửi ra nước ngoài, là các anh sẽ bị tù rục xương! Các anh sẽ bị xử bắn! Tôi sẽ cho người đi gọi công an khu phố lại đây ngay lập tức để họ trói các anh lại!...
Rồi vì quá xúc động, chị tôi vừa khóc, vừa túm lấy áo tên đội cải cách mà la lên: "Cởi trói ngay! Anh có cởi trói cho thầy tôi ngay không thì bảo! Anh dám trói người ngay giữa thủ đô Hà Nội? Hu... hu..."
Tiếng khóc, tiếng la hét của chị tôi, cộng với cảnh một ông già râu tóc bạc phơ, cởi trần, đứng run rẩy giữa trưa nắng, bên cạnh là hai người cán bộ cải cách ruộng đất răng đen mã tấu, đã khiến những người đi lại trên đường phố tụ lại vây quanh, rồi tiếng bàn tán nổi lên, xen lẫn tiếng la hét của đám con nít. Tất cả sự ầm ĩ huyên náo này khiến cho hai tên đội cải cách lúng túng, hoảng hốt. Sau đó, tên đội liền rút chiếc dao găm đeo ở hông, cắt dây trói cho thấy tôi.... Chị tôi liền ôm lấy thầy tôi khóc ròng, rồi vừa khóc, chị vừa dìu thầy tôi đi vào trong nhà.... để mặc cho hai tên đội đứng lớ rớ ở ngoài cửa, chúng không dám bước vô nhà mà cũng không dám bỏ đi.
Sau khi ngồi xuống ghế, trải qua phút giây thảng thốt, thầy tôi sực nhớ ra, vội bảo: "Châu, con ra mời hai ông đội vào nhà!..."
Chị tôi vâng lời, bước ra nói... Lúc đó, hai viên đội mới rón rén đi vô trong nhà.

Sau khi xuống ga Hàng Cỏ, tôi đáp xe điện tới phố Huế, và đẩy cửa vô nhà của chị tôi vào một buổi trưa trung tuần tháng 5 năm 1975. Giống như tất cả những căn nhà ở Hà Nội sau 1954, nhà của chị tôi cũng phải chia 5 xẻ 7 cho hàng chục gia đình cán bộ của nhà nước cư ngụ miễn phí. Nguyên tầng dưới, có tới 4 gia đình, sống chen chúc, được ngăn cách bằng những tấm cót, tấm màn bằng vải, hay bằng nylon. Chị T. con gái út của ông tổng Tu, cũng chỉ được ở trong một căn phòng chật hẹp, không đầy 6 thước vuông. Vì một căn nhà nhiều gia đình cư ngụ, nên cửa chính lúc nào cũng không khóa. Trở lại nhà chị sau thời gian hơn 6 năm xa cách, tôi thấy cảnh vật vẫn như xưa. Vẫn cánh cửa gỗ cũ kỹ, mở ra những hành lang tối om, âm u, mùi ẩm mốc bốc lên; vẫn những con người bơ phờ, gầy gò ốm yếu, hốc hác, những cặp mắt thờ ơ "ngoài miếng ăn, bất cần tất cả"... đang ngồi, đứng rải rác, thản nhiên nhìn tôi bước vô...
Tôi gật đầu nhẹ chào họ, rồi đi nhanh lên lầu. Chị tôi đang ở trong bếp, nghe tiếng chân trên cầu thang, hỏi vọng ra, "Con Thư về rồi đấy hả?" Tôi vội chạy vô nói:"Em đây chị! Em, Chí đây!..."
Chị tôi quay ra, nhìn thấy tôi, sững sờ không nói... Tôi thoáng thấy rất nhanh trong ánh mắt của chị sự xúc động, thêm vẻ hoảng hốt, phập phồng, giống như mắt của một con thỏ đang bị săn đuổi... Chị không chào, không hỏi, không ôm chầm lấy tôi mà hỏi han, khóc lóc, như tôi đoán. Trái lại, chị tôi hoàn toàn im lặng, bước vội ra ngoài cửa bếp, lấy tay đẩy tôi vô trong bếp, rồi đứng đó im lìm bất động, nhìn xuống cầu thang nghe ngóng động tĩnh. Sau vài phút trôi qua trong im lặng, chị tôi quay vô hỏi tôi, giọng thì thầm:
- Cậu vô đây có người nào thấy không?
Trong tích tắc, tôi hiểu ngay thân phận của tôi, hoàn cảnh của chị, và cả một mạng lưới an ninh nguy hiểm rình rập bủa vây với tiêu chuẩn, mỗi người dân phải là một người công an. Tôi lắc đầu, cốt để trấn an chị. Ngay sau đó, chị tôi ra dấu cho tôi đi theo chị vô trong phòng riêng của vợ chồng chị. Đóng cửa lại thật nhẹ nhàng, chị quay lại hỏi, giọng hơi gắt, vẻ phật ý:
- Sao cậu không đi đi, còn quay về đây làm gì?
Tôi hơi bàng hoàng trước thái độ xa cách, lạnh lùng của chị. Có lẽ nhận ra được điều đó, chị tôi hơi hối hận:
- Cậu ngồi đây, tôi đi pha nước chanh cậu uống...
Tôi cảm động. Thì ra, chị tôi vẫn còn nhớ sở thích uống nước chanh đường của tôi. Tôi vội cản chị lại:
- Cảm ơn chị, em không khát...
Chị tôi lại nhắc lại câu hỏi:
- Sao cậu không trốn đi ngoại quốc? Giờ này cậu còn về đây làm gì nữa?
Tôi xúc động:
- Em muốn về gặp thầy lần cuối trước khi em đi...
Chị tôi trả lời, nghe như một tiếng than:
- Thầy mất rồi em ơi!...
"Thầy mất rồi!" Tôi bàng hoàng, không thể nào tin được lời chị tôi nói. Tôi đứng đó, mở to mắt nhìn chị mà như không nhìn thấy một cái gì... Bao nhiêu nỗi ân hận, nuối tiếc, yêu thương dành cho thầy tôi, trong suốt những năm dài xa cách, đã thôi thúc tôi ở lại, chấp nhận tất cả mọi nguy hiểm, vượt cả ngàn cây số ra ngoài Bắc để chỉ ấp ủ có một ước vọng cuối cùng: Được gặp thầy tôi lần cuối! Nay ước vọng đó đã tan tành thành mây khói. Cuộc đời tôi từ khi sanh ra, lớn lên ở Miền Bắc, tôi chỉ có một người gần gũi, thương yêu tôi nhất là thầy tôi. Trong suốt những năm tháng đói khát và khổ ải triền miên, tôi sinh ra và lớn lên trong tình thương của người cha già sống trong cảnh gà trống nuôi con, tôi đã được chứng kiến, được hưởng biết bao hạnh phúc êm đềm, mà chỉ sau này, khi được sống ở Miền Nam Tự Do, nhớ lại những điều đó, tôi mới hiểu được, tất cả những hạnh phúc tôi được hưởng trong quá khứ, là nhờ những hy sinh, đau đớn, nhịn đói, nhịn khát... của thầy tôi... "Thầy ơi!"
Phải mất mấy phút đồng hồ sau, tôi mới cất tiếng hỏi:
- Thầy mất bao giờ?
Tiếng nói của chị tôi nghe như gió thoảng: "Thầy mất năm 1974..."
Năm 1974, tôi đang sống sung sướng, hạnh phúc và no đủ tại Miền Nam. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh đói khổ nơi đất Bắc, cộng với hoàn cảnh thiếu thốn của thầy tôi lúc bấy giờ, và nhất là thân phận của tôi, một tên hồi chánh, "phản bội tổ quốc", đã mang đến cho thầy tôi nhiều nỗi khổ đau gấp bội... Và như vậy, trong nỗi cô đơn tận cùng, thầy tôi đã sống trong sự sự thiếu thốn và đói khát cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Tôi đứng đó, thấy nước mắt của mình ứa ra, chảy dài hai bên má... Tôi khóc âm thầm trong nỗi đau đớn mất mát người thân vô cùng lớn lao, lớn lao chưa bao giờ có trong cuộc đời của tôi...
Tôi hỏi chị tôi: "Mộ của thầy ở đâu?"
Chị tôi nói: "Thầy muốn đưa thầy về Đầm. Nhưng tiền bạc kiếm đâu ra. Thôi thì cứ chôn tạm ở đó... mai sau có...."
Nước mắt tôi lại thêm dàn dụa... Trong lòng tôi cảm thấy đau đớn quá. Như có một nhát dao vô hình đâm vô thật xâu. Tình quê hương, làng xóm, họ hàng thân tộc trong tâm hồn của thầy tôi lớn lao vô cùng. Xa làng Đầm hơn chục năm, nhưng mỗi năm, cứ tết đến, dù lãnh lẽo mưa gió thế nào đi nữa, thầy tôi cũng cơm nắm, muối mè, trái bầu đựng nước, rồi dắt tôi đi bộ cả mấy chục cây số, để về quê tảo mộ, vun đắp mồ mả nội ngoại, rồi thăm hỏi họ hàng xa gần suốt từ làng Sui về làng Đầm...

KỲ  34

Nhìn lại cuộc đời của tôi suốt hơn 50 năm qua, tôi thấy rõ một điều, tôi lớn lên trong đói khát, khốn khổ, rách rưới, nhưng vẫn giữ được tấm lòng đôn hậu, biết nhường cơm xẻ áo cho những người khốn khổ ránh rưới hơn mình, là nhờ ở tấm lòng yêu thương vô bờ bến của thầy tôi. Sống trong cuộc sống khốn khổ, khi tất cả những người chung quanh chỉ biết giành giật nhau mà sống, nếu mình không giành giật mình sẽ chết đói, thiệt khó giữ được tư cách. Tôi sống với thầy tôi, càng đói khát bao nhiêu, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của thầy tôi càng rực sáng bấy nhiêu. Ngày xưa còn bé, khi sống với thầy, tôi không nhận ra hết tấm lòng yêu thương bao la của thầy dành cho tôi. Nhưng sau này, trên đường hành quân vô Nam, trong những ngày tháng vô cùng cô đơn giữa rừng sâu núi thẳm, những giờ phút cực kỳ nguy hiểm khi bom rơi, pháo nổ; hay những ngày tháng được sống hạnh phúc ở Miền Nam tự do, tôi mới bồi hồi và xúc động nhớ lại từng miếng cơm độn, từng ngọn rau luộc, từng củ khoai hà, từng hạt đậu đen.... mà thầy tôi đã chắt chiu nhường nhịn cho tôi... Tôi nhớ cả ánh mắt hạnh phúc của thầy tôi mỗi khi nhìn tôi ăn uống một cái gì. Sau này, cùng với những đau thương, hạnh phúc trên đường đời, cùng với những nguy hiểm cận kề cái chết, tôi mới thấm thía nhận ra, sự khổ đau thiếu thốn bất hạnh và đầy nguy hiểm của cuộc đời tôi chính là cơ hội quý giá giúp cho tôi nhìn thấy những tấm lòng vàng, những cử chỉ nghĩa hiệp, những tấm lòng đôn hậu, mà trong đó, bao giờ hình ảnh của thầy tôi với chòm râu bạc như cước, dài chấm ngực, cũng hiện lên thật gần gũi và phúc hậu vô cùng. Cũng từ những nỗi niềm suy tư đầy thấm thía như vậy, tôi nghĩ nếu tôi sinh ra và lớn lên trong giầu có, thì làm sao tôi có thể hiểu được thầy tôi đã thương yêu tôi như thế nào? Và nếu cuộc đời tôi không trải qua những giờ phút thập tử nhất sinh, làm sao tôi có thể biết được, trên cuộc đời này, có những người sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để cứu giúp một người không hề quen biết như tôi? Từ những hạnh phúc tuyệt vời được hưởng tình thương vô bờ bến của thầy tôi, cùng ơn cứu tử của những Trần, những Nguyễn, những Phạm,.... trên suốt những chặng đường vượt biên đầy sinh tử, trong tay tôi không có nổi một lượng vàng, một trăm đồng bạc,... tôi mới thấy lòng tôi thực sự trang trải với những đau buồn khổ lụy của tất cả mọi người...
Chiều hôm đó, trên căn gác ở phố Huế, lòng tôi tan nát tất cả khi nghe chị tôi báo tin "thầy mất rồi". Vậy là người thân thương nhất của tôi trên cõi đời đã không còn nữa. Cuộc sống của tôi lúc đó như vô nghĩa. Tất cả niềm ao ước cuối cùng của tôi đã không thành tựu...
Chị tôi bước lại, đưa cho tôi chiếc khăn mặt ướt. Chị tôi không nói gì, nhưng tôi biết, chị cũng đang khóc. Khóc âm thầm.... như hàng chục triệu người luôn luôn phải khóc âm thầm dưới hàng triệu mái nhà trong chế độ cộng sản Miền Bắc. Ôi, những giọt lệ chảy dài trong đêm đen, lúc bình minh, hay hoàng hôn, hay giữa ban ngày của không biết bao nhiêu người mẹ, người cha, của vô vàn con trai con gái... trên quê hương đau khổ ngút ngàn của tôi. Lớn lên từ trong những giòng nước mắt chảy dài suốt bao nhiêu năm tháng, nên có một nhà thơ nào đó ở Miền Bắc đã mô tả trái đất như một "giọt nước mắt khổng lồ" trong đêm đen...
Cầm chiếc khăn mặt, tôi ngước cặp mắt đẫm lệ, nhìn vô cặp mắt đẫm lệ của chị tôi... rồi cả hai chị em ôm nhau khóc... Trong tiếng khóc nức nở, chị tôi hỏi:
- Cậu... tính đi đâu bây giờ?
Miệng tôi khô quá. Tôi định trả lời, nhưng không cất thành tiếng. Mãi sau, tôi mới thềo thào:
- Em tính.... về thăm mộ thầy!
Chị tôi giật mình, thảng thốt:
- Lạy Chúa... Cậu về đó bây giờ là tụi nó bắt cậu ngay!
Tôi chùi nước mắt:
- Em về đêm, làm sao chúng biết mà bắt!
Chị tôi lắc đầu nói giọng cương quyết:
- Cậu không được về. Cậu dại dột lắm. Cậu không được ở Miền Bắc này thêm giờ phút nào nữa. Đây toàn là rắn rít, hổ báo không cậu ơi. Cậu ở đây thêm giờ phút nào là nguy hiểm giờ phút đó.... Thầy chỉ có hai người con trai. Nghe tin cậu chiêu hồi, thầy mừng lắm. Thầy hy vọng, giòng giống cháu nội, cháu ngoại của thầy trong Nam không phải quàng khăn đỏ, không phải vô đoàn, vô đảng, để rồi nghe VC xúi bẩy mà chửi cha chửi mẹ, chửi ông bà... Cậu nghe chị, nếu cậu có thương thầy, thì cậu phải vô Nam ngay. Người ở trong đó, dù sao người ta cũng có tình.... không mất hết nhân tính như người ngoài này. Còn ở ngoài này là cậu chết. Cậu nghe lời chị, đi ngay đi. Chị sẽ thay mặt cậu, thắp nhang trên mộ thầy...
Tôi trả lời, ngắn gọn nhưng cương quyết:
- Em phải về thăm mộ thầy rồi đi đâu em mới đi.
Thấy tôi cương quyết như vậy, chị tôi vừa khóc vừa nói trong nước mắt:
- Cậu đi bao nhiêu năm rồi mà sao cậu vẫn ương bướng như vậy hở cậu?... Thôi thì cậu không nghe lời chị thì chị xin cậu hãy thương chị, thương anh, thương các cháu... Cậu về thăm mộ thầy lỡ bề gì, chúng nó bắt được là liên luỵ đến tất cả mọi người. Đi tù hết thôi cậu Chí ơi!... Thầy ơi... Chúa ơi, sao con khổ thế này?...
Nghe chị nói vậy, tôi mới giật mình. Thì ra, từ khi bước vào căn nhà của chị, tôi chỉ nghĩ đến tôi, nghĩ đến lòng kính yêu của tôi dành cho thầy, mà không nghĩ đến sự an nguy của những người thân thương ruột thịt của mình. Tôi chỉ là một thằng con trai độc thân, đang sống bên bờ tuyệt vọng, khi nghe tin thầy tôi mất, tôi chẳng coi cái chết ra gì. Nhưng chị tôi, với cả một gánh nặng  gia đình bốn, năm người con, nếu tôi bị cộng sản bắt giữ, làm sao anh chị và các cháu tránh khỏi bị liên luỵ. Bao nhiêu năm sống trong chế độ cộng sản, tôi hiểu rõ bản chất thâm độc chúng, chuyên dùng tình yêu thương trong gia đình để ràng buộc, kiểm soát người dân. Chúng dùng sự đói khát để đầy đọa con người. Chúng biết rõ, một khi con người đã bị đói khát đến cùng cực thì bản năng thấp kém của thú vật sẽ nổi lên. Và khi con người chỉ biết ứa nước miếng, thèm nhỏ rãi một miếng cơm cháy, một cục kẹo, một miếng xương,... thì khi đó, ngay trong thâm tâm, tư cách, lòng tự trọng, cùng nhân nghĩa lễ trí tín của con người sẽ bị chính sự thèm khát thấp kém và hèn hạ đó làm cho thui trột và biến mất. Cộng sản cũng hiểu rõ, những dục vọng thấp hèn một khi đã nổi lên, mà con người không thể chế ngự, thì sự phá huỷ sẽ diễn ra âm thầm và khốc liệt trong chính nội tâm. Càng những người có lòng tự trọng, có sự hiểu biết, được giáo dục đàng hoàng, thì sự phá huỷ càng khủng khiếp. Và một khi bị chìm ngập trong sự tự phá hủy nội tâm, trong nỗi giầy vò ân hận và nhục nhã, người đó nếu không biết khôn ngoan, tự tha thứ cho chính mình, để tồn tại, để vươn lên, để làm lại cuộc đời,... thì một sợi dây thòng lòng, một bến sông, một liều thuốc chuột,... dễ dàng là sự chọn lựa cuối cùng, để vĩnh viễn trốn thoát khỏi mọi nhục nhã, đau khổ...
Tôi đứng dậy, đặt tay lên đôi vai gầy còm vẫn còn đang run rảy trong tiếng nấc của chị tôi:
- Chị.... Em... xin lỗi chị!...
Chị tôi càng xúc động hơn, tiếng khóc cố nén vì không muốn người dưới nhà nghe thấy, làm tôi càng thêm khổ tâm, xót xa. Ôi, muôn vàn nỗi đau khổ trên trần gian mà mỗi người phải gánh chịu, có nỗi đau khổ nào giống nỗi đau khổ nào...
- Chị cho em gửi lời chào anh... và các cháu.... Bây giờ em đi...
Chị tôi giật mình, ngước cặp mắt đầm đìa nước mắt, tóc rối bù, bao phủ những đường nét méo mó, đau khổ trên gương mặt:
- Lạy Chúa, cậu đi đâu?
- Em đi... để khỏi liên luỵ đến anh, chị và các cháu...
Vừa nói xong, tôi biết ngay tôi đã lỡ lời. Chị tôi nấc lên, nghẹn ngào, úp mặt vào hai bàn tay của tôi:
- Cậu tha lỗi cho chị....
Tôi thấy những giọt nước mắt nóng hổi của chị thấm xuống bàn tay của tôi.... Tôi nói, giọng đầy ăn năn, hối hận:
- Chị ơi... chị tha lỗi cho em...
Chị tôi vẫn úp mặt trong lòng bàn tay của tôi, giọng thì thầm, nhưng tôi nghe rất rõ:
- Ở lại đây ăn với anh chị và các cháu một bữa cơm. Chị sẽ mua rau cần xào tỏi, mua cá rô chiên...
Tôi xúc động quá, nước mắt tôi lại ứa ra dàn dụa... Tôi hít một hơi dài, giữ cho lòng thật bình tĩnh. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh thương tâm, đầy xúc động này, nếu tôi chiều theo lòng mình, tôi sẽ ở lại, để được hưởng những giây phút đầm ấm của gia đình xum họp... Nhưng rồi chuyện gì sẽ xảy ra, cho tôi, cho anh chị và các cháu? Tôi không thể biết, nhưng không, tôi không thể ở lại... Tôi phải ra đi! Nhưng nhìn gương mặt đẫm lệ trong đau khổ của chị, nhìn hai bàn tay níu kéo của chị, tôi hiểu, tôi chỉ có thể rời khỏi đây trong âm thầm, không nên cho chị tôi biết. Nghĩ vậy, tôi lặng lẽ ngồi xuống giường, hai bàn tay của tôi vẫn ấp ủ trong hai bàn tay của chị. Tôi nhẹ nhàng nói:
- Em cảm ơn chị. Vâng, bây giờ chị đi chợ. Em nghe lời chị, em sẽ ở lại trong căn phòng này chờ chị đi chợ về làm cơm. Tối nay em sẽ ăn cơm với anh chị và các cháu một bữa cơm xum họp... Rồi đến khuya em sẽ đi về nhà mẹ thăm mẹ...
Chị tôi nở nụ cười méo mó. Những giọt nước mắt vẫn giàn giụa trong cặp mắt của chị. Nhưng tôi cảm thấy trong cặp mắt đẫm lệ của chị một thoáng hạnh phúc, một thoáng lo âu, nhưng nhiều hơn cả vẫn là sự đau khổ, xót xa vô bờ bến của một người chị dành cho một người em, khi giông tố đang cuồn cuộn đổ về với muôn ngàn nguy hiểm bủa vây...

KỲ  35

Nụ cười méo mó và ánh mắt sợ hãi trên gương mặt giàn giụa nước mắt của chị tôi vào buổi chiều tháng 5 năm 1975 là hình ảnh vĩnh viễn không phai mờ trong tâm trí của tôi suốt thời gian hơn 31 năm qua. Tôi cũng biết, nụ cười méo mó cùng ánh mắt sợ hãi đó đã thường xuyên đến với cuộc đời của chị, của anh, của các cháu, và của hàng chục triệu người Việt lương thiện sống trong sự kìm kẹp của cộng sản trên đất Bắc...
Hai mươi năm sống trên đất Bắc, tôi hiểu, trong suốt những tháng năm dài bị cộng sản cai trị, vẫn có nhiều người Việt can đảm dám công khai đứng lên chống lại chế độ cộng sản. Nhưng vì hệ thống cai trị của cộng sản quá nghiêm ngặt, toàn bộ mạng lưới thông tin đều do đảng cộng sản điều hành, nên những tấm gương anh hùng chống đối cộng sản chỉ được loan truyền bí mật tại mỗi địa phương. Chỉ riêng ở quê tôi, mỗi xóm, mỗi làng cũng có bốn, năm người bị cộng sản bắt đi tù cải tạo vì những lý do bề ngoài khác nhau nhưng nguyên nhân duy nhất, họ là những người chống đối chế độ cộng sản. Bị cộng sản bắt, họ là những người bị tù nhưng không hề có án nên không biết bao giờ được tự do. Đôi khi có người được thả về, nhưng khi tình hình xã hội biến động không thuận lợi, cộng sản lại bắt họ bỏ tù tiếp. Cũng có người được về với gia đình một vài tháng rồi bị bạo bệnh, qua đời. Họ là những tấm gương dũng cảm, nhưng chúng tôi, một số rất ít người, chỉ dám bàn tán về họ một cách lén lút. Vì bàn tán lén lút như vậy nên những tin tức về họ lúc nào cũng hư hư thực thực, không biết đâu là thật, đâu là huyền thoại được thêm thắt, thêu dệt.
Trong số hàng loại biện pháp kiểm soát, kiềm chế người dân, được cộng sản Việt Nam thực hiện, có hai biện pháp rất bá đạo là lấy tương lai chế ngự hiện tại; và dùng sợi dây liên hệ tình cảm gia đình, họ hàng... để trói buộc người dân. Sống trong một xã hội, hiện tại luôn luôn mù mịt, thiếu thốn, con người bắt buộc phải bấu víu vào tương lai để sống. Mà sống trong chế độ cộng sản, một người đã bấu víu vào tương lai, theo đuổi nhu cầu hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình, điều đó dễ đồng nghĩa với những thỏa hiệp về lương tâm, về lý tưởng, khiến mình dễ đầu hàng cộng sản, tự biến mình trở thành công cụ của chế độ. Còn những ai biết quên đi tương lai, hạnh phúc của chính cá nhân mình, để có đủ can đảm đối đầu với cộng sản, thì họ phải đối diện với một cửa ải thứ hai, khó khăn gấp bội, là hạnh phúc của gia đình, của họ hàng ruột thịt. Một người khi theo đuổi lý tưởng cao cả là chống cộng sản, họ có thể có đủ can đảm để hy sinh hạnh phúc của bản thân, thậm chí cả mạng sống của chính họ. Nhưng đòi hỏi phải hy sinh hạnh phúc và tính mạng của những người thân trong đó có vợ con, thì quả là điều không dễ dàng.
Chính vì lo sợ về những thiệt thòi, nguy hiểm liên hệ tới người thân, đã khiến nhiều người Việt ở Miền Bắc phải cắn răng chịu nhục, chấp nhận làm tôi tớ cho cộng sản. Một người bị ghép vào tội phản động, chống lại "đảng và nhà nước", không những người đó bị tù tội hay bị tử hình, mà ngay cả những người thân trong gia đình như cha mẹ, vợ, con, anh chị em... của người đó cũng đều bị liên hệ, phải chịu đựng những thiệt thòi về kinh tế, văn hóa, xã hội.... qua nhiều hình thức khác nhau. Và dĩ nhiên, trong cuộc sống đói khổ cùng cực ở Miền Bắc, ngay cả những nhà thơ, nhà văn, nhà báo tên tuổi, còn sẵn sàng bán mình cho chế độ để đánh đổi lấy những hạnh phúc mỏng manh qua tem phiếu, những ân huệ hời hợt, bạc nhạc của chế độ, thì thử hỏi những người Việt bình thường, trong đó có những người mẹ, người vợ, những trẻ em ngây thơ, làm sao có đủ hiểu biết và can đảm, chấp nhận hy sinh tương lai, hạnh phúc của mình để có được niềm tự hào khi có con,  có chồng, có cha dám can đảm chống lại chế độ cộng sản?
Không những thế, trong xã hội cộng sản ở Miền Bắc, cả một guồng máy tuyên truyền, bao gồm sách vở, thơ văn, phim ảnh, kịch nghệ, truyện dài, truyện ngắn,... đều nhan nhản những câu chuyện được ngụy tạo nhằm ca ngợi những người vợ dám tố chồng, những người mẹ dám tố con, những người con dám tố cha mẹ,... chỉ vì họ biết chạy theo ảo tưởng "yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với tổ quốc là trung thành với đảng bác". Sống trong xã hội cộng sản, mọi người đều thấy lý trí, tình cảm, tâm linh của mình quằn quại giữa hàng loại những mâu thuẫn, trái khoáy. Những người lớn, từng trải, có hiểu biết, tuy yêu thương nhau tha thiết, nhưng vẫn phải dè chừng nhau, nghi ngờ nhau và giả dối với nhau, để tồn tại. Những người trẻ tuổi, ít từng trải, thiếu hiểu biết, tuy kính yêu ông bà, cha mẹ, anh em, nhưng sẵn sàng tố cáo, bán đứng người thân vì họ đã được đảng cộng sản nhồi nhét tuyên truyền: "Làm người yêu nước phải biết vì đại nghĩa, vì quyền lợi của đảng, của tổ quốc, sẵn sàng hy sinh những người thân yêu khi người thân yêu chống lại đảng!" Một người vợ dù có yêu chồng tha thiết, nhưng một khi biết chồng có âm mưu chống lại đảng và nhà nước, người vợ không thể nào chấp nhận hy sinh tương lai của gia đình, trong đó có con cái, để bao che cho chồng. Một người chồng thương yêu vợ con, sẽ không thể nào chịu đựng nổi những khổ đau đầy đọa mà vì họ, vợ con họ phải gánh chịu. Hiểu được nỗi cay đắng đoạn trường này, nhiều người vì không muốn để vợ con liên luỵ, đã gạt lệ, ly dị vợ, từ bỏ con cái để theo đuổi lý tưởng... hoặc vì hạnh phúc của vợ con, đành từ bỏ lý tưởng để chịu nhục làm nô lệ cho cộng sản.
Sống trong chế độ cộng sản, tôi hiểu rất rõ những nguy hiểm liên đới sẽ đến với anh chị và các cháu của tôi, nếu chẳng may tôi bị bắt ngay tại nhà của chị tôi. Tôi hiểu tấm lòng yêu thương của chị dành cho tôi dù có lớn lao đến thế nào thì cũng không thể át được nỗi lo ngại, phập phồng đầy sợ hãi của chị khi hạnh phúc của chồng con bị đe dọa. Vì vậy, ngay sau khi chị đi chợ mua đồ ăn, không một lời từ giã, không một dòng chữ ly biệt, tôi cũng âm thầm chùi nước mắt, lặng lẽ lủi thủi rời khỏi nhà chị, nhảy lên xe điện về Bờ Hồ, rồi từ Bờ Hồ tôi đáp xe điện hướng về Ô Chợ Dừa, để ghé nhà của Mẹ...

Nhà của Mẹ tôi ở trong một ngõ hẻm, chật hẹp và tối tăm. Tuy đó là căn nhà biệt lập, nhưng tiêu điều giống như một túp lều hơn là một căn nhà. Từ đường xe điện vô đến nhà không đầy 200 thước. Xuống xe điện, thấy trời còn sáng, tôi không dám về nhà Mẹ ngay, đành lang thang trên những khu phố để giết thì giờ, chờ bóng tối buông phủ....
Đường phố Hà Nội vẫn ngơ ngác, phờ phạc như năm năm trước khi tôi lên đường vô Nam. Người Hà Nội vẫn vất vả ngược xuôi, trên khuôn mặt ai ai cũng hằn lên dấu vết nhọc nhằn, bương chải, lo âu, khắc khoải. Ngay cả trên những gương mặt thơ ngây của trẻ em, của tuổi học trò, tôi vẫn thấy ngưng đọng những buồn phiền, thiếu thốn, đói khát... Thủ đô Hà Nội, nơi nổi tiếng ngàn năm văn vật, từng xuất hiện lung linh như trái cấm ngoài tầm tay với trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Vũ Bằng; từng được thi sĩ Quang Dũng chấm phá một cách kiêu sa tuyệt vời qua câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"; dưới sự cưỡng hiếp và bức tử của những người cộng sản, đã trở thành tụ điểm của tội phạm, lừa đảo, xảo trá, mất hết tình người. Hà Nội thuở nào được nhạc sĩ Anh Bằng trao gửi qua những câu hát mãi mãi thao thức lòng người, "Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say. Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy..."; nơi vĩnh viễn được người Bắc di cư ấp ủ trong niềm tự hào qua câu ca dao "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”,... vậy mà dưới sự kìm kẹp của chế độ cộng sản sau mấy chục năm, đã trở thành một thành phố bị cộng sản "Đem bục công an đặt giữa tim người. Bắt tình cảm xuôi ngược theo luật đi đường nhà nước"...
Khi trời chạng vạng tối, phố bắt đầu lên đèn, tôi mới đi trở lại đường xưa, rẽ vô căn hẻm cũ... với tất cả sự phập phồng lo sợ xen lẫn nỗi nhớ nhung, xót xa. Tôi biết, trong những ngày tháng sắp tới, tôi sẽ luôn luôn sống trong tâm trạng của một con thú bị săn đuổi, của một người sống ngoài vòng pháp luật. Bằng mọi cách, tôi phải né tránh tất cả các trạm cảnh sát, các đồn công an, và cả những người quen biết. Tôi quyết định sẽ ở lại Hà Nội với Mẹ một hai ngày, rồi tuỳ tình hình, tôi sẽ về quê thăm mộ Thầy, rồi sau đó, tôi phải vô Nam, tìm đường vượt biên. Tôi biết, trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, chỉ có ở Miền Nam, tôi mới có thể được người dân giúp đỡ, đùm bọc, để có thể vượt biên thành công. Còn ở Miền Bắc, ngoài một số người thân và bạn bè cật ruột ra, tôi hoàn toàn cô đơn. Thậm chí, ngay cả những người thân và bạn bè cật ruột của tôi, họ cũng hoàn toàn bất lực, không thể và không đủ can đảm giúp đỡ tôi làm những chuyện động trời là vượt biên, trốn ra nước ngoài.
Vì biết chắc, tôi có thể bị công an, bộ đội bắt bất cứ lúc nào, và điều này chắc chắn sẽ xảy ra, nên tôi đã chuẩn bị tất cả những gì có thể làm để bằng mọi giá, tôi có thể trốn chạy ngay sau khi bị bắt. Trong hoàn cảnh của tôi, một tên "hồi chánh" "phản bội tổ quốc", tôi hiểu, nếu tôi bị cộng sản bắt, không sớm thì muộn, chúng cũng phăng ra lý lịch của tôi. Khi đó, cộng sản sẽ tử hình tôi, hoặc tống tôi vô nhà tù kiên cố nhất với án tù chung thân. Lúc đó, tôi sẽ vô phương trốn chạy. Vì vậy, một khi bị bắt, trong thời gian từ 24 đến 48 tiếng đồng hồ đầu tiên, tôi tin tưởng tôi sẽ qua mặt công an bộ đội cộng sản. Trong thời gian đó, với những loại giấy tờ giả khác nhau, tôi sẽ dễ dàng đóng vai một người bộ đội đảo ngũ biết ăn năn, một anh thanh niên xung phong trốn đơn vị đang hối cải tìm đường trở lại đơn vị, hay một người cán bộ đi buôn lậu biết nhận lỗi... Trong vai trò của một người mang tội hình sự đó, chắc chắn những người công an, bộ đội bắt giữ và canh gác tôi sẽ lơ là cảnh giác, tạo điều kiện cho tôi tẩu thoát dễ dàng. Điều quan trọng sinh tử nhất cho tôi lúc đó là tôi phải tẩu thoát bằng mọi giá trong vòng 24 tiếng đồng hồ đầu tiên, trước khi công an, bộ độ cộng sản biết rõ tôi là ai.
Để có thể qua mắt được người CS dễ dàng sau khi bị họ bắt, tôi bỏ vô trong bóp một vài tấm hình cắt từ trong báo và tạp chí; khoảng 5, 10 đồng bạc lẻ; một ít thư từ nhặt được từ những đống rác cạnh bưu điện; và ít giấy tờ tùy thân giả mạo với tên giả, địa chỉ giả. Tất cả chỉ cốt làm sao đánh lừa người cộng sản, khi họ cầm chiếc bóp của tôi họ sẽ đinh ninh nó có chứa những "kỷ vật vô giá" đối với tôi. Đinh ninh như vậy, người CS sẽ chủ quan cho rằng tôi sẽ không dám bỏ chiếc bóp vô giá để trốn chạy. Còn lại, tất cả những giấy tờ lưu không, tức là những giấy tờ giả nhưng chưa ghi tên, địa chỉ, cùng tất cả tiền bạc tôi có, tôi đều giấu kỹ hai, ba chỗ trong người và dưới hai chiếc vớ. Tôi biết, thông thường, tại mỗi trạm gác ở bến xe, bến tàu, bến phà, hay khi xét nhà... nếu thấy ai khả nghi, công an, bộ đội CS chỉ giữ giấy tờ và bóp của người đó, và rất ít khi họ khám xét cơ thể ngay lúc đó. Người cộng sản hiểu rõ, với người dân, giấy tờ tùy thân vô cùng quan trọng. Vì ậy, khi công an, bộ đội đã giữ giấy tờ tuỳ thân của ai, họ chắc chắn người đó không bao giờ dám trốn chạy. Và chính thái độ đinh ninh chắc chắn này của công an, bộ đội, sẽ khiến họ chủ quan, lơ là cảnh giác, tạo điều kiện cho tôi trốn chạy dễ dàng. Thực tế, trong suốt thời gian sống ngoài vòng pháp luật của cộng sản tại Miền Bắc, cũng như Miền Nam, tôi đã nhiều lần bị cộng sản bắt, rồi trốn thoát trong vòng có mấy tiếng đồng hồ sau đó, chỉ nhờ ở sự chủ quan khinh địch của công an, bộ đội cộng sản khi họ "cầm chắc" chiếc bóp "vô giá" của tôi...

KỲ  36

Ngay khi bước vào căn hẻm cũ, dưới ánh đèn vàng vọt từ ngoài đường hắt vô và từ những nhà chung quanh chiếu xuống, tôi đã nhận ra căn nhà quen thuộc của Mẹ. Khi đến gần, tôi vẫn thấy chiếc cửa gỗ cũ kỹ bên bức tường loang lổ. Cổng khóa, nhưng tôi không bấm chuông, vì không muốn Mẹ bước ra ngoài, bật đèn sáng, gây kinh động gia đình người công an ở cạnh nhà. Nhìn quanh, không thấy ai, tôi vội với tay vào cái hốc nhỏ, kín đáo nằm ngay dưới chân cổng... Trong một khoảnh khắc phập phồng lo ngại, tôi bỗng vui mừng khi sờ thấy chiếc chìa khóa nằm gọn trong hốc... Tôi xúc động nhớ tới lời Mẹ dặn trong những năm tháng xa xưa, "Mẹ già lắm rồi... chẳng biết sống chết thế nào. Con đi đâu thì đi, nhưng nhớ về với Mẹ. Khi về, thò tay vào cái hốc ở cửa, thấy chiếc chìa khóa Mẹ giấu ở đó là Mẹ vẫn còn sống, vẫn còn ở cái nhà này...".
Tay tôi run run mở khoá, rồi cố gắng đẩy chiếc cổng gỗ thật nhẹ nhàng để Mẹ không hay biết. Sau khi khép cổng, tôi đi qua chiếc cửa sổ có che rèm. Trong nhà đèn sáng, nghe có tiếng động lịch kịch, tôi cố nhìn vô trong nhưng không thấy gì. Bước thêm mấy bước, quẹo về bên phải là chiếc cửa duy nhất để vô nhà. Tôi đứng đó, hít một hơi thở thật sâu, cố gắng chế ngự nỗi niềm xúc động của mình, rồi gõ cửa... Không nghe thấy tiếng Mẹ trả lời, chỉ nghe tiếng lịch kịch trong phòng, nên tôi đoán, có lẽ vì tôi quá xúc động nên gõ cửa quá nhẹ. Tôi gõ lần hai, mạnh hơn. Vẫn không thấy tiếng Mẹ trả lời, nhưng những tiếng lịch kịch cũng không còn. Im lặng năm, mười giây đồng hồ... Tôi đang định gõ cửa lần nữa, thì nghe Mẹ hỏi, giọng run run:
- Ai đó... Có phải Chí không con?
Tôi ngạc nhiên không hiểu sao Mẹ lại gọi trúng tên tôi. Tôi xúc động, nước mắt tự nhiên trào ra:
- Dạ, con đây... Mẹ!
Trả lời chưa dứt, tôi nghe có vật gì rơi xuống sàn nhà, tiếng chân của Mẹ đi vội vã, tiếng then cửa lạch cạch, rồi cánh cửa mở rộng... Dưới ánh đèn, Mẹ của tôi đứng đó, run rẩy ở tuổi 65, với mái tóc bạc, chiếc lưng còng và cặp mắt đẫm lệ... Lúc ấy, tất cả đều nhòa đi trước mắt tôi, nhưng tôi thấy rõ cặp mắt của Mẹ đang đẫm lệ. Trong suốt bao năm dài sau này, mỗi khi nhớ về Mẹ, giữa không biết bao nhiêu những kỷ niệm thương đau, xót xa và ân hận, không hiểu sao tôi vẫn thấy trong tâm trí tôi lung linh hình ảnh cặp mắt đầm đìa nước mắt của Mẹ vào buổi tối hôm đó... Sau này, ngay khi được đọc lần đầu tiên mấy câu thơ trong bài thơ Ta Về của Tô Thuỳ Yên:
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau...
chẳng hiểu sao tôi xúc động liên tưởng ngay đến cặp mắt đẫm lệ của Mẹ. Và chẳng phải chỉ lần đầu tiên, mà mãi mãi về sau, mỗi khi đọc đoạn thơ trên của Tô Thuỳ Yên, tôi đều nhớ đến "nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu" của Mẹ vào tối hôm đó... Chính vì giá trị gợi cảm, tạo nên những liên tưởng tuyệt vời, mang đến trong lòng tôi nỗi niềm xúc động sâu xa và miên viễn như vậy, nên kể từ khi được đọc bài thơ Ta Về, nhà thơ Tô Thuỳ Yên đã ngự trị một vị trí vô cùng trang trọng trong tâm hồn của tôi. Ngay cả sau này, khi qua một số thân hữu ở Mỹ, nghe được những tin tức hư, thực về ông, lòng yêu quý của tôi dành cho ông vẫn không hề thay đổi. Không thay đổi, không phải vì tôi ngoan cố, mù quáng bảo vệ một thần tượng, mà vì tôi nghĩ rằng, một nghệ sĩ với tài năng đặc biệt, trong những hoàn cảnh đặc biệt xuất thần, họ có thể để lại cho đời một kiệt tác bất hủ. Tôi trân trọng kiệt tác bất hủ đó, tôi biết ơn nghệ sĩ đó...
Dìu Mẹ bước vào trong nhà, nhìn cảnh tượng trước mắt, lòng tôi trùng xuống trong nỗi xót xa, thương cảm. Ngay góc nhà là chiếc nồi nấu "cơm" bị đổ ụp. Chung quanh là một phần gạo, ba phần khoai khô đổ tung tóe...
Níu tôi ngồi xuống giường, Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, rồi xụt xịt:
- Mẹ đang lấy "gạo" thổi "cơm" thì nghe gõ cửa. Mới đầu Mẹ giật mình vì cổng thì khóa, ai vô được trong này mà gõ cửa. Rồi thần hồn mách thần tính, Mẹ nghĩ ngay đến con, vì chỉ có con mới biết chỗ Mẹ giấu chìa khóa, mà mở cổng, vô gõ cửa... Nghĩ vậy là Mẹ rụng rời chân tay, đánh đổ cả nồi, cả "gạo"...
Nhìn chỗ khoai độn gạo tung tóe dưới đất, tôi thở dài:
- Ở nhà, Mẹ vẫn phải ăn độn hở Mẹ?
Mẹ tôi chép miệng:
- Mấy chục năm nay, cả nước ai mà chẳng ăn độn, hở con? Còn có độn mà ăn là may mắn lắm. Ở Đọi, Đệp [quê ngoại của tôi], Mẹ thấy người ta còn phải đào cả củ chuối lên mà ăn nữa đó.
Tôi cúi xuống hốt chỗ gạo và khoai độn bỏ vào nồi, mà ứa nước mắt. Cuộc đời của tôi trong những năm tháng dài sống trên đất Bắc, cũng thường xuyên phải ăn độn khoai, độn sắn, độn bột mì. Và Mẹ tôi đã nói đúng, mấy chục năm trời, ở Miền Bắc, hầu hết mọi người dân đều phải ăn độn quanh năm. Một năm, họa may chỉ có một, hai ngày Tết, người dân Miền Bắc mới may mắn được ăn cơm không độn.
Tối hôm đó, tôi kể cho Mẹ nghe tất cả sự thật về cuộc đời của tôi, kể từ khi tôi rời động Ông Đô đi tìm tự do cho đến khi tôi trở lại Miền Bắc. Nghe chuyện, Mẹ tôi khóc ròng, trong khi hai bàn tay của Mẹ cứ nắm chặt lấy tay tôi. Mẹ cũng kể cho tôi nghe những chuyện liên quan đến tôi. Vì tôi xa cách Mẹ từ khi còn nhỏ, nên tôi không có "hộ khẩu" ở Hà Nội. Sau này, tuy tìm thấy Mẹ, nhưng tôi chưa kịp chuyện "hộ khẩu" về Hà Nội, thì đã bị gọi đi "bộ đội". Trong suốt thời gian hơn một năm trời sống trong hàng ngũ "bộ đội", tôi vẫn không hề khai địa chỉ của Mẹ ở Hà Nội. Vì vậy, khi tôi hồi chánh, vô Nam tìm tự do, rồi viết bài tố cáo cộng sản và lên đài VOA đọc những bài viết đó, chỉ những người cộng sản ở quê biết. Còn ở Hà Nội, cộng sản vẫn không hề biết, Mẹ của tôi có một người con "phản bội đảng bác, chạy theo đế quốc". Anh, chị và một số bạn bè thân thiết của tôi, có ghé thăm Mẹ, cho biết những tin tức về tôi, nhưng không một ai khai báo cho cộng sản hay biết. Nhờ vậy, Mẹ của tôi vẫn sống bình an trong suốt những năm dài khi tôi ở Miền Nam. Bây giờ, thấy tôi đột ngột trở về, Mẹ muốn tôi ở lại Hà Nội sống với Mẹ.
Mẹ bảo tôi: Con đã về đây thì ở đây với Mẹ. Mẹ sẽ xoay sở mua cho con cái "hộ khẩu". Chuyện đó chẳng khó đâu con. Thời này chỉ có tiền là xong hết.
Trong thâm tâm, tôi đã quyết tâm về thăm Thầy Mẹ và một số người bạn thân cùng chí hướng, rồi tôi sẽ tìm đường vượt biên ra ngoại quốc. Đã được sống ở Miền Nam tự do, tôi không thể nào chấp nhận cả cuộc đời của mình sẽ mục ruỗng trong chế độ cộng sản. Đó là chưa kể đến việc, không sớm thì muộn, cộng sản sẽ phát hiện ra tôi, sẽ tống tôi vô tù chung thân, thậm chí có thể choàng vào cổ tôi cái án tử hình. Bên cạnh tương lai u ám và sự hiểm nguy cho bản thân, tôi còn lo sợ đến sự an toàn của Mẹ, anh chị, các cháu và bạn bè của tôi, nếu chẳng may tôi bị bắt ở nhà của Mẹ. Với những giấy tờ giả, tôi có thể đi lại ở Miền Bắc, Miền Nam, tôi có thể bị cộng sản bắt, nhưng chúng không thể nào phăng ra được lý lịch của tôi, nếu tôi bị bắt ở một nơi xa lạ.
Nghĩ vậy, tôi nói:
- Con ở lại đây ngày nào là nguy hiểm cho Mẹ ngày ấy. Con phải đi...
Mẹ tôi khóc:
- Nguy hiểm thế nào đi nữa Mẹ cũng chịu. Mẹ già rồi, sống được ngày nào với con là Mẹ hạnh phúc ngày ấy...
Nghe Mẹ nói, tôi xúc động nhận ra, chỉ có tình Mẫu Tử thiêng liêng, lòng yêu con vô bờ bến, người Mẹ mới có thể sẵn sàng chấp nhận mọi sự hiểm nguy, để hy sinh tất cả cho con. Sống trong chế độ cộng sản, Mẹ tôi biết rõ những hình phạt tàn nhẫn của cộng sản, nếu chúng bắt được Mẹ chứa chấp tôi. Nhưng Mẹ sẵn sàng chấp nhận tất cả những hình phạt tàn nhẫn đó để đánh đổi lấy hạnh phúc mong manh được sống chung với người con của Mẹ trong vài tháng, vài năm... Tôi biết, trong hoàn cảnh lúc đó, tôi chỉ có thể dùng sự an nguy của chính tôi để thuyết phục Mẹ chấp thuận cho tôi một lần nữa phải chia tay Mẹ, ra đi...
Tôi khuyên Mẹ:
- Thưa Mẹ, nếu con ở lại, sớm muộn gì con cũng bị bắt. Khi đó, không những Mẹ khổ, mà con cũng khổ. "Tội" của con thế nào cũng bị họ xử bắn, hoặc bỏ tù chung thân mà Mẹ...
Mẹ tôi nức nở:
- Khổ quá, con ơi, con đừng nói nữa.... Thôi thì con đi đi... Ở lại với Mẹ vài tháng cho Mẹ đỡ nhớ, rồi con đi... Mẹ đã chả có công nuôi con thì Mẹ cũng chả dám ngăn cản con nữa...
Nghe Mẹ nói, tôi thấy thương Mẹ vô cùng. Tôi biết, Mẹ tôi lúc nào cũng mang mặc cảm đã không nuôi tôi, nên thường dễ dàng chiều ý tôi, không muốn làm tôi phật ý. Ngay lúc đó, tôi biết, tôi chỉ có thể ở lại với Mẹ một vài ngày, chứ không thể nào ở lại tới vài tháng. Tôi hiểu, trong hoàn cảnh của tôi, tôi ở thêm ngày nào ở Hà Nội, tôi sẽ gặp nguy hiểm ngày đó. Nhưng lúc ấy, tôi không thể nói rõ cho Mẹ biết ý định của tôi. Nói ra lúc đó, tôi chỉ làm cho Mẹ tôi thêm đau đớn, ảnh hưởng đến sức khỏe của Mẹ. Tôi sẽ nói với Mẹ khi nào gặp dịp thuận lợi.
Cả ngày hôm sau, tôi được hưởng hạnh phúc ở trong nhà của Mẹ, được Mẹ chăm sóc từ miếng ăn, thức uống, đến giấc ngủ, được thấy bóng dáng hiền thục của Mẹ thấp thoáng đi lại trong phòng. Được sống hạnh phúc như vậy, tôi thấy mềm lòng, ý chí, nghị lực của tôi tiêu tan.... Tôi chỉ muốn được mãi mãi được sống bên cạnh Mẹ, và thấy sợ hãi khi phải bước vào đời, vì không biết bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đợi. Muốn vậy, nhưng tôi biết tôi phải ra đi càng sớm càng tốt.... Và khi bóng tối bắt đầu buông phủ, tôi chào Mẹ, rồi đi bộ theo đường tắt ra ga Hàng Cỏ, đáp tầu về Phủ Lý, để bắt đầu chuyến đi nguy hiểm: Về quê viếng thăm mộ của Thầy tôi!

KỲ  37

Từ nhà Mẹ đi ra Ga Hàng Cỏ, có hai lối. Một lối từ nhà ra tới Ô Chợ Dừa rẽ trái vô phố Khâm Thiên, đến cuối đường, rẽ trái khoảng cây số là tới Ga. Lối thứ hai gần hơn, đi tắt theo Ngõ Văn Chương thẳng ra phố Khâm Thiên rồi tới Ga. Cả hai lối đi này đều đến mặt tiền của Ga Hàng Cỏ. Tại đây, tôi phải xuất trình giấy tờ và phải mua vé tàu. Đó là điều tôi không muốn vì hai lẽ. Lẽ thứ nhất, số tiền tôi mang theo từ Miền Nam rất ít ỏi, chỉ đủ dùng thật tằn tiện cho ăn uống dọc đường. Tôi cũng không muốn nhận tiền của Mẹ vì Mẹ đã rất nghèo khổ. Vì vậy, tôi không thể dùng tiền để mua vé tàu, vé xe, trừ khi bắt buộc phải mua. Lẽ thứ hai, quan trọng hơn, vì giấy tờ tôi dùng toàn là thứ giả, nên tôi phải tránh tối đa mọi sự kiểm soát của các cơ quan công quyền cộng sản. Việc dùng giấy tờ giả để qua mặt công an, bộ đội cộng sản tại các nút chặn trên các tuyến đường, hay các trạm kiểm soát giao thông, hoặc trên các phương tiện chuyên chở công cộng là điều không có gì khó khăn. Tuy nhiên, tại các bến tàu xe quan trọng như Ga Hàng Cỏ, việc kiểm soát giấy tờ của công an, bộ đội cộng sản bao giờ cũng kỹ lưỡng hơn và có nhiều phương tiện, kỹ thuật để phát hiện giấy tờ thực giả dễ dàng hơn. Vì vậy, tôi đã chọn lối thứ ba để vô Ga Hàng Cỏ từ phía đường Trần Quý Cáp sau khi đi qua Ngõ Văn Chương, rồi rẽ trái dọc theo Hồ Văn Chương.
Trải qua bao nhiêu lần vượt thoát, sống bất hợp pháp trong chế độ cộng sản, đã giúp tôi có được những kinh nghiệm qua mặt công an cán bộ cộng sản một cách rất đơn giản. Kinh nghiệm thứ nhất, trên đường trốn chạy cộng sản, tôi luôn luôn cố gắng không mang bất cứ thứ hành lý nào trên người. Dĩ nhiên, một chiếc ba lô hay túi xách, với đầy đủ quần áo, mùng mền, lương thực, thuốc men,... bao giờ cũng rất cần thiết cho một người khi chạy trốn cộng sản. Nhưng nếu tôi mang những thứ đó, thì chính những thứ đó là bằng chứng tố giác tôi không phải người địa phương, mà là người từ xa đến, và còn có thể tiếp tục đi xa. Điều này sẽ khiến công an, cán bộ CS rất dễ chú ý nghi ngờ và thận trọng kiểm soát giấy tờ. Vì vậy, không mang thứ gì trên người là điều quan trọng đầu tiên để có thể đánh lạc hướng sự chú ý của cộng sản.
Kinh nghiệm thứ hai, tôi phải cố gắng am tường càng nhiều càng tốt nơi tôi đang có mặt và nơi tôi sắp đến. Để có thể có được những kiến thức cần thiết này, việc đầu tiên khi đặt chân đến bất cứ thành phố, thị trấn, thị xã hay làng xóm nào, tôi cũng đều hỏi thăm đường để đến bưu điện. Tại bưu điện, giả vờ trong vai người mua tem thư, tôi dễ dàng trông thấy những cán bộ, bộ đội hay công nhân viên,... gửi thư từ cho người thân. Chỉ cần kín đáo ngó thoáng qua những chiếc phong bì trong tay họ, tôi cũng đủ thấy họ tên của người gửi, đơn vị, địa chỉ làng xã, quận huyện nơi người đó đang ở. Nhiều khi may mắn, tôi còn nhặt được những chiếc phong bì, những lá thư... ở những đống rác ngay cạnh bưu điện. Đọc những thứ này, tôi sẽ thu lượm và khai thác được nhiều kiến thức cần thiết. Dùng những kiến thức đã thu lượm được, tôi sẽ trò chuyện làm quen với những người đi đường để hỏi thăm tên họ của chủ tịch, bí thư đảng uỷ xã... của xã nơi tôi đang có mặt, và xã tôi đang sắp tới... Với kiến thức về địa phương mà tôi vừa thu lượm, với cách ăn mặc hòa đồng với địa phương, lại không mang hành lý đồ đạc gì trên người, tôi dễ dàng qua mặt công an, cán bộ cộng sản. Ngoài ra, có khi trên đường đi, tôi còn ghé tiệm sách, mua những cuốn "cộng sản đặc" như cuốn Ngục Trung Nhật Ký của Hồ Chí Minh, rồi giả vờ say sưa ngồi đọc trên xe, trên tàu; hay khi đi bộ thì cố ý cầm cho bìa cuốn sách quay ra ngoài... để công an, cán bộ cộng sản trông thấy khỏi nghi ngờ. Kinh nghiệm thứ ba, trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc mọi nơi, tôi luôn luôn cố gắng làm quen với một người đồng hành để trò chuyện, vừa tìm hiểu thêm những điều cần biết, vừa tránh được sự chú ý từ những cặp mắt cú vọ của cán bộ công an cộng sản. Nhất là trên xe lửa, thường có những "toa nằm". Hành khách của những toa này đều là những cán bộ "trung cao" hoặc thân nhân của những cán bộ đó. Tìm cách làm quen, trò chuyện với những người đó là điều không khó. Và khi đã trò chuyện được với một người ở "toa nằm", thì nhân viên soát vé hầu như không bao giờ hỏi vé, vì họ đinh ninh mình cũng là người của "toa nằm".
Kinh nghiệm thứ tư, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, gặp bất cứ đối tượng CS nào, tôi cũng phải cố gắng ứng xử một cách bình tĩnh để tạo cho mình vẻ ngây thơ, ngờ nghệch. Điều này sẽ khiến công an, cán bộ cộng sản có thái độ coi thường, chủ quan, khinh địch. Một khi họ đã có thái độ đó, tôi sẽ có cơ hội qua mặt họ dễ dàng, hoặc trốn thoát cho dù tôi có bị bắt.
Để có thể né tránh được sự kiểm soát giấy tờ của công an cộng sản tại Ga Hàng Cỏ, tôi thấy chỉ có cách trèo tường, nhảy vô sân ga, chứ không thể nào đường hoàng trình giấy tờ để mua vé ở ngay cổng nhà ga. Tôi tin tưởng, một khi đã chót lọt lên được xe lửa, tôi sẽ dễ dàng phát hiện ra nhân viên kiểm soát vé hay công an ngành đường sắt ngay từ xa. Và nhờ không mang theo trên người bất cứ hành lý gì, tôi sẽ kịp thời né tránh họ bằng cách lẩn trốn trong toilet, trèo lên nóc tàu, hay ẩn mình dưới các bậc lên xuống của các toa tàu. Trong trường hợp cực chẳng đã, nhân viên xoát vé hay công an đường sắt phát hiện ra tôi trốn vé, thì với bộ mặt ngờ nghệch của tôi cộng với việc tôi chẳng có hành lý gì, nhân viên xoát vé và công an đường sắt sẽ đinh ninh tôi chỉ là một thanh niên nghèo khổ, túng thiếu, đi xe lửa quịt mà thôi. Vì vậy, giải pháp trừng phạt duy nhất đối với  một người đi xe lửa quịt là họ sẽ đuổi tôi xuống ngay khi tàu dừng lại ở một ga nào kế đó. Khi đó, tôi sẽ đóng vai một thanh niên đau khổ, nhưng sợ sệt và ngoan ngoãn vâng theo lời họ, đi ra khỏi nhà ga. Một khi khuất mình trong bóng tối, tôi sẽ chạy thục mạng dọc đường sắt, theo hướng tàu chạy một đoạn, rồi tìm cách chui qua hàng rào, vô gần đường sắt và tìm chỗ ẩn mình chờ đợi. Khoảng 5, 10 phút sau, tàu chuyển bánh, từ từ rời ga với tốc độ chậm, sẽ giúp tôi nhảy lên tàu trở lại một cách dễ dàng. Trong trường hợp lỡ chuyến tàu đó, tôi sẽ chờ để nhảy chuyến tàu khác sau đó. Một thân một mình, không thân nhân, không hành lý, đã giúp tôi tự tin, đi lại dễ dàng theo kiểu "sâu đo" trên khắp mọi nẻo đường của quê hương Việt Nam. Mãi sau này, khi tính chuyện vượt biên đường bộ từ Sàigòn ra Đông Hà, Quảng Trị, rồi trực chỉ đến Savannakhet, Lào, cạnh sông Mêkông, để sang bờ bên kia là Mukdahan của Thái, chỉ vì người chị một lòng một dạ tin vào số mệnh "luôn có quý nhân phù trợ" mà đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm của tôi nên hết sức năn nỉ, khiến tôi phá lệ "độc hành, không hành lý" chấp nhận để cho người cháu gái và một người bạn của nó đi cùng, mang theo đủ thứ hành lý cồng kềnh kể cả mùng mền, nên cả ba chúng tôi cùng bị công an biên phòng cộng sản bắt khi cách biên giới Lào Việt chỉ có 4 cây số... Đó là chuyện sau này tôi sẽ trở lại với nhiều tình tiết khổ đau, nguy hiểm, để rồi dẫn đến cuộc vượt thoát của tôi ngay trên đường phố Huế, cách lao Thừa Phủ không đầy mấy trăm mét, và ngay trước mặt hai tên công an áp tải tù.
Ga Hàng Cỏ, nhà ga lớn nhất Miền Bắc, là trung tâm điểm của 5 tuyến đường sắt đi 5 hướng như Lào Cai, Thái Nguyên, Hải Phòng, Lạng Sơn và vô hướng Nam qua ga Phủ Lý, Nam Định là hướng tôi phải đi. Vì 4 hướng kia đều đi về phía bắc và đông bắc, chỉ duy tuyến đường đi Phủ Lý là theo hướng nam, nên việc nhận diện đoàn tàu đi Phủ Lý không phải là điều khó.
Đặt chân tới Ga Hàng Cỏ, tôi lại nhớ ngày xưa, mỗi năm một lần, vào dịp tết nguyên đán, bao giờ Thầy tôi cũng dắt tôi đi lên Hà Nội chơi. Trong những lần đó, khi tuổi thơ trông thấy, nghe thấy không biết bao nhiêu điều lạ lùng ở phố phường Hà Nội, đã khiến tôi luôn miệng hỏi. Có một lần, tôi không nhớ rõ năm nào vì khi đó chắc tôi mới 10, 11 tuổi, tôi có hỏi Thầy tôi, Ga Hàng Cỏ có phải là nơi ngày xưa người ta bán cỏ cho trâu không? Thầy tôi bảo, đúng trước kia ở Ga Hàng Cỏ người ta bán cỏ, nhưng không phải cho trâu mà là cho ngựa. Rồi nhìn những đoàn tàu dài hàng chục toa chạy trên đường sắt, tôi tò mò hỏi Thầy tôi, làm sao những đoàn tàu hỏa đó có thể quay đầu khi nó đi đến tận cuối đường sắt...
Trong những ngày ở chơi Hà Nội, Thầy cũng thường dắt tôi đi xem các danh lam thắng cảnh, trong đó Gò Đống Đa là nơi hay viếng thăm nhất. Theo trí nhớ của tôi, Gò Đống Đa cao to, cây cối mọc um tùm, phải leo tới mấy chục bậc mới tới cổng, rồi qua cổng, lại phải leo thêm mấy chục bậc nữa mới tới đỉnh. Sau này, tôi nghe nói, cộng sản Hà Nội sợ làm phiền lòng quan thầy Bắc Kinh nên đã bí mật tìm cách làm cho Gò Đống Đa càng ngày càng nhỏ lại. Còn Ga Hàng Cỏ thì đổi thành Ga Hà Nội.
Trong những lần trèo lên Gò Đống Đa, có lần tôi nhặt được một con ngựa bằng gỗ không biết của ai đánh rơi. Con ngựa được chạm trổ sơ sài, nhưng đen bóng. Tuổi thơ của tôi chẳng bao giờ có đồ chơi, nên tôi quý con ngựa đó lắm, suốt cả chục năm trời, lúc nào cũng giữ nó bên mình. Đến khi từ động Ông Đô cắt đường, trực chỉ đi về thị xã Quảng Trị trong chuyến đi đầy định mệnh, tôi đã bỏ lại tất cả mọi thứ, kể cả hình ảnh của người thân, chỉ giữ lại duy nhất con ngựa gỗ. Vậy mà rồi khi an toàn tới được thị xã Quảng Trị, tôi mới đau xót nhận ra, không biết trên chặng đường hơn chục cây số bị té lên té xuống, tôi đã đánh rơi mất con ngựa gỗ ở đâu, vào lúc nào...
Bố tôi rất kính trọng các anh hùng dân tộc, và đặc biệt ngưỡng mộ Vua Quang Trung. Bố tôi kể trong số những anh hùng dân tộc Việt Nam, Vua Quang Trung là người khiến cho vua Tàu sợ hãi nhất. Bố tôi bảo, nếu Vua Quang Trung sống thọ thêm chục năm, thì Việt Nam sẽ khôi phục được bờ cõi Bách Việt, bao gồm cả vùng Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng Tây. Trong những ngày tháng thơ ngây đầu đời đó, Thầy tôi đã truyền cảm và thêu dệt vào tấm lòng trinh bạch của tôi lòng kính phục vô bờ bến dành cho Vua Quang Trung. Nhờ vậy, sau này khi sống ở Miền Nam tự do, khi đọc thấy trên báo Sóng Thần vào năm 1974, có trang quảng cáo về một cuộc thi hùng biện do một cơ quan của Phật Giáo (tôi không còn nhớ rõ tên) tổ chức, về đề tài "Ai là người anh hùng dân tộc, anh hay chị kính phục nhất?", tôi đã nhớ đến Gò Đống Đa, nhớ đến con ngựa gỗ, và nhớ đến Thầy tôi... nên ghi tên dự thi và chọn Vua Quang Trung là người anh hùng tôi kính phục nhất. Kết quả tôi may mắn được giải nhì. Ngay cuối buổi thi, ông Ngô Khắc Tỉnh, Tổng trưởng Giáo dục, đã đích thân trao giải nhất 100,000 đồng cho một sinh viên y khoa (tôi quên mất tên), và giải nhì, 50,000 đồng cho tôi. Khi nhận được giải thưởng, trước mặt mọi người, trong đó có anh chị và các cháu của tôi, tôi vừa bàng hoàng bất ngờ, vừa xúc động không cầm được nước mắt. Tôi khóc vì nhớ tới Thầy Mẹ, nhớ tới Gò Đống Đa, nhớ tới con ngựa bằng gỗ đen như mun bây giờ không biết thất lạc ở đâu hay đã trở về với cát bụi?!... Tôi cũng khóc vì những xúc động chân thành khi thấy mình tuy là một người hồi chánh, nhưng vẫn được ban giám khảo đối xử bình đẳng để có được cơ hội thăng tiến công bằng như tất cả những người khác của Miền Nam tự do...               

KỲ  38

Muốn về thăm mộ Thầy, tôi phải đi xe lửa từ Hà Nội về Phủ Lý. Đến Phủ Lý tôi sẽ đi bộ về quê. Tuy tôi có thể mượn xe đạp của một số bạn bè tâm đắc ở Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định,... để đi lại cho dễ dàng, nhưng tôi không dám mượn. Lý do là trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi rất dễ bị bắt và có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Và nếu chẳng may bị bắt, chuyện trốn thoát đối với tôi tuy không khó, hễ liều là được, nhưng chắc chắn tôi chẳng thể nào trốn cùng với chiếc xe đạp. Mà đối với người dân Miền Bắc, như quý vị đã biết, chiếc xe đẹp là cả một gia tài, nhiều người ước mơ cả đời người cũng không có. Hơn nữa, xe đạp ở ngoài Bắc đều có bảng số. Căn cứ vào bảng số của xe, công an có thể biết được chủ chiếc xe đó là ai. Như vậy sẽ vô cùng nguy hiểm cho những ân nhân của tôi...
Trên đoàn tàu chợ từ Hà Nội về Phủ Lý dài khoảng hơn 50 cây số, tôi ngồi ở ngay bậc lên xuống. Trời lúc đó khoảng gần nửa đêm, nên gió lạnh thổi phần phật. Tàu chạy được khoảng 15 phút thì trời mưa. Tôi ngồi co ro trong góc tàu, chịu đựng sự lạnh lẽo trong trạng thái chán chường, chẳng muốn sống, khi nghĩ đến cuộc đời của tôi sẽ vĩnh viễn không bao giờ được gặp Thầy tôi nữa... Tình yêu thương của Thầy đối với tôi trong hoàn cảnh túng thiếu, và thân phận gà trống nuôi con, suốt những năm tháng dài là sợi dây thiêng liêng vô hình trói chặt cuộc đời tôi với ông cụ. Tôi nhớ khi xưa còn bé, mỗi khi ngủ tôi có thói quen hay đưa tay lên đầu. Tay đụng vô đầu mùng, nên tôi hay bị muỗi ở ngoài mùng đốt xưng nhiều chỗ trên hai cánh tay. Thầy tôi thấy vậy, đã ngồi cặm cụi cả một buổi chiều, vá một miếng nylon thật lớn ngay ở đầu mùng cho muỗi khỏi đốt tôi. Tình phụ tử thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng, nhưng vì miếng nylon cũ kỹ xấu xí, lại khác màu với chiếc mùng, thêm vào đó là những đường chỉ vụng về, bó túm nhiều chỗ quanh bốn cạnh tấm nylon, đã làm tôi rất xấu hổ và bực bội. Vì vậy, chỉ sau một đêm ngủ trong chiếc mùng vá miếng nylon, ngay sáng hôm sau, trước khi đi học, tôi đã lén gỡ miếng nylon, nhét vô mái tranh đằng sau nhà... Sau này, lớn lên, mỗi khi đi đâu, làm gì, đụng phải chiếc mùng, hay bị muỗi đốt, hoặc nghe tiếng muỗi kêu, là tôi lại nhớ đến chiếc  mùng vá miếng nylon của tôi ngày xưa, lại nhớ đến Thầy và thấy thương cảm, xót xa, ân hận cho những lầm lỡ của tôi tuổi ấu thơ...
Cũng chính vì sống trong sự ân hận và xót xa như vậy, nên cuộc đời của tôi nhiều khi bị chìm ngập trong những giầy vò của chính mình về những sai lầm trong quá khứ. Trong niềm đau khổ và ân hận đó, sau này tôi mới thấm thía lời dậy của Thầy tôi, "Nghiêm khắc với bản thân, nhưng khi cần, cũng phải biết tha thứ cho những lỗi lầm của chính mình". Cũng vì nhớ thương Thầy, nên trước khi lên đường vô Nam, tôi đã làm một chuyến đào ngũ táo bạo, nguy hiểm nhưng cũng đầy ngoạn mục vào năm 1971.
Năm đó, đơn vị bộ đội của tôi đóng ở vùng rừng núi phía tây tỉnh Quảng Trị, cách thị xã Quảng Trị khoảng 50 cây số đường rừng. Cả sư đoàn của tôi đang chờ lệnh lên đường xâm lăng Miền Nam. Là một người lính cấp bậc binh nhì, tuổi mới 20, nên tôi chẳng có một khái niệm rõ rệt về những đoàn xe, đoàn quân, ngày đêm đổ vô phương nam vào mùa mưa hay mùa nắng. Tôi chỉ tâm tâm niệm niệm lời Thầy dặn tôi lần cuối trước khi tôi lên đường: Thầy đẻ ra mày, nuôi mày khôn lớn, không phải để mày chết mất xác trong rừng. Trong Nam mày có bốn bà chị. Vô đó rồi, cố gắng tìm các chị mày, nói các chị muốn báo hiếu Thầy thì nuôi cho em ăn học... Tâm niệm như vậy, nên tôi đã quyết tâm, ngay khi đặt chân lên bờ nam của vĩ tuyến 17, tôi sẽ tìm đủ mọi cách trốn khỏi đơn vị để về với Miền Nam tự do. Vì mang trong lòng quyết tâm đó, tôi đinh ninh chuyến đi này của tôi sẽ là chuyến ly biệt, vĩnh viễn không có ngày gặp lại Thầy. Trong tâm trạng của người ra đi không có ngày trở về như vậy, tôi quyết định, bằng mọi giá, tôi phải về Bắc thăm Thầy, Mẹ tôi lần cuối, rồi trở lại đơn vị, trước khi lên đường vô Nam.
Lúc đó, cả sư đoàn tôi đang trong tình trạng ứng chiến 100%, sẵn sàng lên đường vô Nam bất cứ lúc nào, nên chuyện xin nghỉ phép để về Bắc là điều không bao giờ xảy ra. Ngay cả một số bạn bè trong sư đoàn, nhận được điện tín báo tin bố mẹ ốm nặng, hay qua đời, cũng đều không được đi phép. Vì vậy, tôi thấy chỉ còn có cách duy nhất là đào ngũ, và chỉ đào ngũ một thời gian ngắn khoảng nửa tháng, một tháng rồi trở lại đơn vị, nên tôi không lo ngại gì về những thảm kịch mà người lính đào ngũ ở Miền Bắc thường phải gánh chịu. Khó khăn lớn nhất cho tôi là làm sao tôi có thể đào ngũ được an toàn, về quê thăm Thầy và lên Hà Nội thăm mẹ một cách đàng hoàng. Có như vậy thì chuyến đào ngũ của tôi mới thành công. Còn như đào ngũ mà khi về thăm Thầy, Mẹ, phải lén lút, thậm chí có khi bị bắt, bị trói chân, trói tay, bị đánh đập, khiến Thầy, Mẹ đau khổ, lo sợ, hoảng hốt, hay liên luỵ, thì tốt nhất, không nên đào ngũ.
Muốn đào ngũ an toàn, điều đầu tiên, tôi phải có giấy tờ hợp lệ. Để có giấy tờ hợp lệ tôi phải nhờ đến thằng H. bạn chí thân trong ban tuyên huấn của sư đoàn. Nhờ biết vẽ, kẻ chữ, làm "báo tường" khi còn đi học, nên mỗi tháng, tôi phải lên ban tuyên huấn để làm "báo tường". Làm được 2 tháng thì tôi gặp H. và hai người chơi rất thân với nhau.
Sau này qua chuyện trò, tôi được biết, thân phụ của H. trước đây đi lính cho Pháp. Sau 1954, ông cụ ở lại và bị cộng sản bắt, đưa đi trại cải tạo ở Nam Hà. Hình như là trại Đầm Đùn được xây dựng từ thời Pháp thì phải, lâu ngày tôi nhớ không rõ. Vì H. sống với mẹ ngay từ khi còn bé đến lớn, giấy tờ khai sanh đều ghi tên bố vô danh, nên cộng sản không hề biết H. là con của một tù cải tạo từng đi lính cho Pháp. H. tướng cao ráo, da trắng, có hàm râu quai nón rất điệu nghệ, và giọng hát rất hay. Nhờ vậy nên H. được chọn vô tiểu ban văn nghệ thuộc ban tuyên huấn của sư đoàn. H. cũng cho biết quê mẹ của H. ở ngay Đọi, Đệp, là quê ngoại của tôi, nên tình thần giữa hai chúng tôi thêm keo sơn, gắn bó. Nhưng có lẽ thiêng liêng hơn cả là cả hai chúng tôi cùng sở thích yêu thơ nhạc thời tiền chiến, quý trọng các nhà văn, nhà thơ thời Văn Nhân Giai Phẩm, nhất là Quang Dũng, Trần Dần, Hữu Loan, Lê Đạt. Chính nhờ H. đọc thuộc lòng cho tôi nghe bài thơ "Hoa và Rượu" rất dài của Nguyễn Bính nên tôi mới biết Nguyễn Bính có bài thơ này.
Khác hẳn tất cả những người lính bộ độ khác, H. có phong thái rất nghệ sĩ, sống đàng hoàng, và trọng chữ tín. Tôi rất tin tưởng và tâm sự với H. nhiều chuyện, nhờ vả H. nhiều lần, và lần nào H. cũng xứng đáng với sự tin tưởng của tôi. Lần này cũng vậy, sau khi nghe tôi bầy tỏ ước muốn được về thăm Thầy, Mẹ, cần một số giấy tờ đi đường, không đầy một tháng sau, H. tìm đến lán của tôi, trao cho tôi 2 tờ giấy sự vụ lệnh lưu không, đã đóng dấu và có sẵn chữ ký của sư đoàn trưởng. Tôi chỉ cần điền tên, ngày sinh và đơn vị, là tôi có được ngay một tờ giấy công tác hoàn toàn hợp lệ, trót lọt qua mọi cửa ải trên đường từ Nam ra Bắc. Thông thường, lúc đó, các giấy công tác của bộ đội chỉ cần có con dấu và chữ ký của tiểu đoàn trưởng, hoặc trung đoàn trưởng, là đủ hiệu lực. Vì vậy, khi cầm hai tờ giấy của H. tôi rất mừng. Tôi kéo H. ra bờ suối, tâm sự mọi chuyện, ngoại trừ dự tính vô Nam tìm kiếm mấy bà chị của tôi.
Khó khăn thứ hai của tôi khi đảo ngũ là làm sao qua mắt được đơn vị trong thời gian ít nhất 2 tiếng đồng hồ. Đây là thời gian tối thiểu để tôi có thể băng rừng, đi từ nơi đóng quân trong rừng, ra đến được đường mòn có xe hơi chạy. Tôi không biết đường mòn này có phải là một bộ phận của đường mòn 559 hay không. Tôi chỉ biết đó là một con đường nhỏ hẹp, chỉ đủ một chiếc xe hơi chạy. Đường chạy qua nhiều dòng suối, nhiều đường hầm, và có nhiều đoạn chạy chênh vênh bên vực thẳm, hoặc trong rừng sâu.
Từ ngoài đường lộ xe hơi chạy vào đến đơn vị tôi đóng qua là một đoàn đường ruột mèo, ngoằn nghèo lên xuống giữa rừng rậm, qua nhiều đèo, đồi, núi, suối... Vượt qua đoạn đường này nhanh nhất phải mất 2 giờ đồng hồ. Nếu trong thời gian 2 tiếng đồng hồ, đơn vị phát hiện tôi đào ngũ, tôi sẽ có nguy cơ bị các nút chặn ở ngoài quốc lộ bắt lại dễ dàng. Sau 2 tiếng đồng hồ, khi ra tới quốc lộ, tôi sẽ đón xe quân sự để quá giang, và đơn vị sẽ rất khó bắt được tôi.
Để có thể giữ được bí mật cuộc đào ngũ của mình, tôi quyết định trốn vào buổi tối, sau khi đơn vị đã tập họp, điểm danh. Thông thường, sau khi điểm danh xong, chúng tôi phải ngồi học tập chính trị ngay trên lán của đại đội. Vì lúc đó, tình trạng lính đào ngũ trước khi vô Nam rất phổ biến, nên việc canh phòng rất nghiêm ngặt. Ngoài những toán canh gác thường xuyên của đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn... còn có mạng lưới tự giác theo dõi lẫn nhau theo cơ cấu 3 người một tổ, 6 người một lán, mỗi tiểu đội có hai lán, phải có bổn phận theo dõi lẫn nhau...

KỲ  39

Mỗi tối, vào lúc 6 giờ tối, cả đại đội phải có mặt trên lán đại đội để điểm danh. Sau đó chúng tôi phải học tập chính trị, chia nhóm kiểm điểm, sinh hoạt phê và tự phê, rồi cuối cùng là đọc báo Nhân Dân, Quân Đội, và ca hát các bài hát cách mạng cho đến 10 giờ khuya, chúng tôi mới được về lán ngủ. Mục đích chính của những sinh hoạt này là nhằm tạo cho người lính bộ đội, thể xác thì mệt nhoài, đầu óc thì bận rộn, không còn thì giờ nghĩ đến gia đình, bạn bè, hay bất cứ thứ gì khiến cho họ trở nên uỷ mị, cùn nhụt "tinh thần chiến đấu cách mạng". Đối với người dân Miền Bắc nói chung, và nhất là người bộ đội chuẩn bị lên đường "đi B", ba thứ bị cộng sản kiểm duyệt và bị cấm kỵ thật nghiêm ngặt là thư từ của gia đình, "nhạc vàng" hay thơ tình, và niềm tin tôn giáo.
Việc canh gác, theo dõi lẫn nhau trong khi học tập chính trị trên lán đại đội tuy thường xuyên và chặt chẽ, nhưng cũng giống như bất cứ chuyện gì trên đời, khi đã làm đi làm lại một việc hết ngày này qua ngày khác thì nó cũng hóa nhàm, và mọi người đều làm chiếu lệ. Vì vậy, trong những buổi tối học tập chính trị sau này, chuyện một vài người xin phép ra ngoài làm chuyện riêng tư, hay cáo ốm về lán nằm nghỉ vẫn thường xảy ra, và ít ai bị để ý hay bị theo dõi chặt chẽ. Biết vậy, nhưng tôi không thể nào phiêu lưu "xin phép ra ngoài", dễ tạo sự chú ý, theo dõi của cán bộ trong đại đội. Tôi quyết định vào một buổi tối Thứ Sáu, trong lúc học tập chính trị trên lán đại đội, khi có cơ hội thuận tiện, tôi sẽ lặng lẽ lẻn ra ngoài để thực hiện chuyến vượt thoát táo bạo, gặp lại những người thân thương, trước khi lên đường vô Nam.
Tại sao tôi lại chọn buổi tối Thứ Sáu? Có mấy lý do. Thứ nhất là thời gian đó, mỗi tuần, chúng tôi phải thay phiên nhau xuống đồng bằng mua thực phẩm. Trong những chuyến đi đó, tôi để ý thấy số lượng xe từ phía Nam đi ra, nhiều gấp bội so với những ngày khác. Xe đi vô thì chở đầy bộ đội, quân nhu, thực phẩm. Xe đi ra thì trống không. Trên đoạn đường rừng xe thường đi, phải đi qua những đoạn suối, rất khó đi, nên xe thường phải chạy chậm. Đó là những lúc thuận tiện nhất để tôi có thể "quá giang" khỏi phải hỏi tài xế. Thông thường thời gian đó, từ miền núi rừng Trường Sơn, thuộc tỉnh Quảng Trị, chuyện bộ đội quá giang xe xuống đồng bằng, hay từ đồng bằng về chỗ đóng quân của đơn vị ở trên rừng, là chuyện vẫn thường xảy ra. Nhưng đó là những chuyến quá giang xe giữa ban ngày của cả một nhóm bộ đội thì người tài xế không có gì nghi ngờ. Còn nếu quá giang xe vào ban đêm, nhất là khi tôi chỉ có một thân một mình, chắc chắn tôi sẽ bị tài xế nghi ngờ. Vì vậy, "quá giang" khỏi hỏi tài xế vào tối Thứ Sáu là an toàn nhất cho tôi.
Tối Thứ Sáu còn là tối ầm ĩ, huyên náo và thiếu cảnh giác nhất trong khi học tập chính trị tại lán của đại đội. Dù ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật cũng có những việc phải làm như tăng gia, làm vệ sinh lán trại,... nhưng tối Thứ Sáu là buổi tối cuối tuần, nên mọi chuyện cũng được "thư giãn" chút đỉnh. Trong bối cảnh đó, sự vắng mặt của tôi sẽ dễ dàng không bị người khác chú ý.
Ngay chiều Thứ Sáu hôm đó (lâu ngày quá, tôi không nhớ rõ, chỉ nhớ là vào mùa hè), tôi đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng và gọn gàng cho chuyến đi. Ngoài quần áo, tư trang, tôi còn mang theo trong ba lô hai trái lựu đạn tấn công và một con dao găm. Đây là những trang bị cá nhân cho mỗi người lính. Lúc đầu, tôi định mang theo khẩu AK-47 để phòng thân, lỡ khi gặp thú dữ trên chặng đường dài mấy chục cây số đường rừng. Sau tôi thấy khẩu súng quá nặng nề. Hơn nữa, một khi đã "trốn khỏi đơn vị" mà còn mang vũ khí theo, tôi dễ dàng bị quy kết chụp mũ tội "phản động" và dễ bị "xử lý tại chỗ" một khi bị đơn vị truy lùng, chặn bắt.
Năm giờ chiều Thứ Sáu, tôi kín đáo nai nịt quần áo gọn gàng và đi giầy, buộc giây giầy thật chặt, thay vì chỉ đi "dép râu" như mọi lần. Khi đó, tôi đâu có thể ngờ được, bảy năm sau, vào một buổi sáng tinh mơ, trong một phòng biệt giam ở rừng núi vùng Đông Hà, tôi, bị cầm tù vì tội vượt biên, hai tay bị trói, cũng đã nhờ một người bạn tù buộc giây giầy thật chặt, để chuẩn bị cho cuộc đào thoát, và tôi đã đào thoát thành công ngay trước mặt hai người công an áo vàng, giữa đường phố Huế, cách lao Thừa Phủ không đầy 300 thước...
Chiều hôm đó, tuy kín đáo buộc giây giầy, nhưng việc làm của tôi cũng bị T. một người lính cùng tiểu đội phát hiện. T. ngạc nhiên hỏi tôi:
- Đi "lán C" (tiếng lóng gọi lán của đại đội) có vài tiếng rồi về ngủ, sao mày tính đi đâu mà giầy dép đóng bộ kỹ vậy?
Tôi lúng túng:
- Đóng bộ gì đâu... Tao phải đi giầy vì... sợ rắn cắn...
Cũng may, câu trả lời của tôi khá hợp lý, vì mới hai hôm trước, trong đơn vị có một người đi đêm bị rắn cắn. Có lẽ cũng nghĩ đến tai nạn đó, nên T. "tỏ vẻ" không nghi ngờ gì câu trả lời của tôi. Tôi vui vẻ bá vai T. cùng đi lên lán đại đội, trong lòng tôi yên tâm vì đã qua mắt T. Nhưng tôi đã lầm...
Sáu giờ tối Thứ Sáu, cả tiểu đội tôi có mặt trên lán đại đội điểm danh như thường lệ. Điểm danh xong, khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, quan sát chung quanh thấy mọi chuyện đều thuận lợi, tôi lặng lẽ rút êm ra khỏi lán. Ra khỏi lán, tôi không vội chạy ngay về lán của mình, mà khéo léo đứng khuất một thân cây lớn, giả vờ đi tiểu để quan sát động tĩnh. Tôi tin tưởng, nếu có ai phát hiện hay nghi ngờ hành động rút khỏi lán của tôi, họ phải đi theo, lập tức tôi sẽ thấy họ. Khi đó, tôi sẽ giả vờ là người đi tiểu, thản nhiên quay trở lại lán đại đội, sinh hoạt bình thường, chờ đợi dịp khác, thuận tiện....
Chờ đợi khoảng một phút, không thấy động tĩnh gì, tôi yên tâm, chạy thẳng một mạch về lán của mình. Thời gian đó, để tránh máy bay Mỹ oanh tạc, nên các lán đóng quân đều rải rác cách nhau từ 50 đến một vài trăm thước. Khoảng cách giữa lán của tôi và lán đại đội chỉ có hơn trăm thước đường chim bay, nhưng ở hai triền đồi khác nhau. Vì vậy, trong vài phút đồng hồ, tôi phải chạy bở hơi tai hết lên dốc rồi xuống dốc, mới về tới lán của mình.
Ngay khi chạy ào vô lán, tôi nhảy vội lên xạp ngủ làm bằng tre nứa, đưa tay với lấy chiếc ba lô để sẵn. Nhảy xuống đất, tôi quàng vội chiếc ba lô vào vai, rồi lao ngay ra cửa.... Ngay khi đó, tôi thấy trước cửa lán, T. đứng chắn ngang!
Trong bóng tối nhập nhoạng, tuy không rõ mặt người, tôi cũng biết, T. đã biết tôi đang "đảo ngũ". Trong một, hai tích tắc ngắn ngủi, tôi biết tôi phải làm gì. Rút ngay trong túi áo chiếc bút máy, thứ mà T. vẫn ao ước, tôi dúi vào tay T. "xiết chặt", rồi nói vội vàng, bằng một giọng chí tình nhưng kiên quyết:
- T.... Mẹ tao ốm nặng, tao phải về gấp một hai tuần rồi sẽ trở lại. Mày thương tao, đừng nói cho ai biết...
Nói xong, không cần biết thái độ của T. thế nào, tôi xô T. sang bên rồi lao thẳng ra ngoài bằng tất cả sức mạnh và sự liều lĩnh của một thằng con trai mới 20 tuổi đầu....
Sau này, khi trở lại đơn vị, trải qua những cuộc "đấu tố" kéo dài nhiều tuần lễ, tôi mới biết được, ngay buổi tối hôm đó, T. đã nghi ngờ và bí mật theo dõi tôi mà tôi không biết. Đến khi thấy tôi lẻn ra khỏi lán, T. cũng khôn ngoan chờ đợi một lúc, rồi mới lẻn ra theo tôi. Có điều T. chạy theo tôi về lán, vì tò mò, tuyệt nhiên không hề vì ác ý. Vì vậy, khi tôi lao ra khỏi lán, T. cầm trong tay chiếc bút máy tôi cho, tần ngần và lo sợ, không biết phải làm thế nào. Đi báo cho đơn vị biết thì T. lo ngại cho tôi bị bắt lại; mà không đi báo cho đơn vị biết, sau này mọi chuyện đổ bể, T. cũng phải chịu trách nhiệm nặng nề...
Còn tôi, sau khi chạy ra khỏi lán, như một mũi tên rời khỏi ná, tôi vội vàng lao tới một cách điên cuồng, vì tôi linh cảm, sớm thì vài phút, muộn thì chỉ mươi phút đồng hồ, tôi sẽ bị đơn vị truy đuổi. Tôi biết, T. chỉ là một người lính bộ đội bình thường, không thể nào hy sinh mọi chuyện để bảo vệ cho tôi. Trước sau gì, nghĩ đến những nguy hiểm sẽ đến với mình, T. sẽ chạy đi báo cáo cho đơn vị. Thời gian do dự của T. chỉ là vài phút đồng hồ. Khi đơn vị được báo cáo, nhận biết ra tôi đào ngũ, và quyết định truy đuổi, cũng chỉ 5, 10 phút đồng hồ là tối đa. Vì vậy, bằng mọi giá, tôi phải vượt qua đoạn đường ruột mèo ngoằn ngoèo trong rừng, từ căn cứ của đại đội, đến đường lộ xe chạy, trong thời gian 10 phút đồng hồ là tối đa.... Nhưng trời ơi, làm sao tôi có thể chạy hết đoạn đường rừng hai tiếng đồng hồ trong mười phút?! Kinh hoảng quá, tôi như phát điên lên được... Tôi biết, không sớm thì muộn, chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ bị bắt lại. Bị bắt lại thì tôi không ngán, vì tôi đã chấp nhận tất cả mọi chuyện kể cả tính mạng cho chuyến đi sinh tử của mình. Nhưng bị bắt khi tôi chưa được gặp lại những người thương yêu mà tôi đã ấp ủ và thêu dệt trong tâm trí, thì quả thực đau đớn cho tôi quá...
Giữa lúc đang chạy điên cuồng, trong tâm trạng vạn phần bối rối như vậy, thì đột nhiên, tôi nghe thấy mấy tiếng súng nổ vang trong đêm tối... Tiếp theo là hai tràng AK-47 chát chúa... Nghe vậy, tôi hiểu ngay, đó là những tiếng súng cảnh cáo của đơn vị dành cho tôi, và cuộc truy lùng đã bắt đầu, trong khi khoảng cách giữa hai bên chỉ có 15 phút đường rừng.
Ngay khi nghe tiếng súng nổ, đáng lẽ tôi phải bối rối hoảng hốt hơn, nhưng chẳng hiểu sao, tự dưng tôi bừng tỉnh, đầu óc trở nên sáng suốt, nghĩ ra ngay một chuyện vô cùng quan trọng: Tại sao tôi phải chạy theo con đường mòn độc đạo, ngoằn nghèo ruột ngựa trong rừng, để rồi bị họ đuổi theo bắt lại? Nếu đó là con đường độc đạo duy nhất cho tôi, thì nó cũng sẽ là con đường độc đạo duy nhất cho đơn vị đuổi theo tôi. Vì vậy nếu tôi khôn ngoan, rời khỏi con đường độc đạo đó một cách khéo léo ở bất cứ chỗ nào, thì những người đuổi theo tôi không tài nào biết để truy đuổi. Và như vậy, họ sẽ tiếp tục lao theo con đường độc đạo để truy đuổi vì đinh ninh đó là con đường duy nhất, tôi phải theo. May mắn hơn cho tôi, lúc đó là trời tối, nên việc tôi rẽ khỏi đường độc đạo ở bất cứ chỗ nào là điều quá dễ dàng, dù có để lại dấu vết đi nữa, thì trong đêm tối, những người đuổi theo tôi cũng không tài nào phát hiện ra được... Giả dụ như trong những người đuổi theo tôi có ai thông minh đoán được, tôi rẽ khỏi đường độc đạo, thì họ cũng không tài nào biết chính xác, tôi rẽ về hướng nào, rời khỏi chỗ nào trên đường độc đạo...
Nhưng tôi nên rẽ về hướng nào? Từ đường độc đạo chạy theo hướng Đông Tây, đổ xuống đường lộ, nếu tôi rẽ phía tay phải, là rẽ về hướng bắc, hướng đồng bằng, về thị xã Quảng Bình và ra Miền Bắc. Nếu tôi rẽ phía tay trái, là rẽ về hướng nam, về phía tỉnh Quảng Trị và vô Miền Nam. Trong một thoáng suy nghĩ rất nhanh, tôi biết, những người bộ đội đuổi theo tôi đinh ninh tôi sẽ trốn về Bắc. Vì vậy, hướng truy đuổi của họ sẽ là từ con đường mòn này đổ về phía tay phải hướng ra Miền Bắc. Nghĩ vậy, tôi liền rời khỏi đường mòn, rẽ ngay về phía bên trái. Từ đây, tôi nhắm hướng đường lộ, cắt rừng đi theo đường vát cạnh huyền của một tam giác. Quả nhiên, tuy đi đường cắt trong rừng, gặp nhiều bụi cây, dây leo đủ loại, nhưng khoảng 3 tiếng đồng hồ sau, tôi cũng đến được đường lộ xe chạy. Tuy không biết chính xác, nhưng qua quan sát, tôi đoán, đây chính là con đường duy nhất cắt ngang con đường ruột mèo mà đơn vị tôi vẫn thường đi, để chạy tới vùng đồng bằng tỉnh Quảng Bình.
An toàn chui vào một bụi rậm bên đường ngồi nghỉ, ăn chút lương khô, uống một bụng nước suối, tôi rất mừng vì mình vừa thoát khỏi bị bắt trong đường tơ kẽ tóc. Sau khi tỉnh táo, tôi suy nghĩ, không biết nên "quá giang" xe đi ngay khi có dịp thuận lợi, hay tạm nằm yên trong rừng vài hôm chờ đợi tình hình yên ổn rồi mới "quá giang" xe đi. Tôi lo ngại, nếu "quá giang" xe đi ngay, thì chiếc xe mà tôi "quá giang" trên con đường duy nhất từ đây ra Quảng Bình, chắc chắn sẽ gặp toán bộ đội đang truy lùng tôi vì họ cũng đang trên đường đi bộ về Quảng Bình. Những người lính bộ đội đó có thể vẫy tay xin quá giang, và nếu người tài xế chấp thuận, cho họ nhảy lên phía sau xe, thì tôi sẽ bị họ phát hiện và bắt sống một cách quá dễ dàng!
Còn nếu chịu nằm yên trong rừng vài hôm, thì tôi cũng không biết chắc những chuyện rủi ro gì sẽ xảy ra cho tôi. Nhất là lương khô tôi giấu giếm mang theo chỉ đủ dùng trong có một ngày, vì đề phòng đảo ngũ, mỗi người bộ đội đều không được phép trữ lương khô, cơm nguội, muối và tiền mặt. Đó là chưa kể đến những nguy hiểm, nếu sáng hôm sau, đơn vị cho chó truy lùng, chúng có thể đánh hơi ra những dấu vết của tôi. Nhất là chỗ tôi đang ẩn náu, cách ngã ba đường lộ và con đường ruột mèo không bao xa, chỉ một hai cây số là cùng...
Sau một hồi suy nghĩ, tôi quyết định chọn giải pháp thứ ba: Không đi ngay và cũng không ngủ lại. Chờ thêm vài tiếng đồng hồ, cho cả chục chiếc xe chạy qua, rồi tôi sẽ "quá giang" một chiếc. Nếu những người bộ đội truy lùng tôi có quá giang xe nào, thì họ cũng đã quá giang được những chiếc chạy trước. Còn tôi "quá giang" xe sau, chỉ cần tôi thật cẩn thận để tránh mặt họ, khi qua mấy bến phà, các trạm gác, và khi đến thị xã Quảng Bình, là tôi có thể an toàn đi đến Vinh. Từ đó, tôi sẽ đáp xe lửa đêm về Hà Nội. Tôi tin chắc, những người bộ đội trong đơn vị có được lệnh truy đuổi tôi, họ cũng chỉ đến các bến xe, bến phà ở tỉnh Quảng Bình, đóng chốt ở đó, chờ đợi tôi đến bắt, chứ không khi nào họ dám về tới tận Miền Bắc. Nghĩ vậy, tôi tưởng là khôn, nhưng không ngờ, mọi chuyện vẫn xảy ra ngoài sự dự đoán của tôi....

KỲ  40

Sau những giờ phút căng thẳng, quá mệt mỏi, tôi ngồi dựa gốc cây, ngủ thiếp lúc nào không hay. Đến khi nghe tiếng xe gầm rú ngoài đường, tôi giật mình tỉnh dậy, ngó đồng hồ biết đã 10 giờ khuya. Như vậy là tôi đã ngủ được khoảng hơn 2 giờ đồng hồ. Tôi muốn nghỉ thêm một, hai tiếng nữa, nhưng không hiểu sao thấy trong dạ bồn chồn, nôn nao khó tả, nên tôi quyết định ra đi. Để an toàn, ra đến đường lộ, tôi không rẽ theo hướng bắc là hướng xuống đồng bằng, mà đi ngược trở lại hướng nam. Tôi đi như vậy là vì tôi biết, nếu đi theo hướng xuống đồng bằng, chỉ khoảng 2 cây số là tôi phải đi qua lối rẽ vô đơn vị. Trong khoảng 2 cây số đó, nếu tôi không "quá giang" được xe, tôi phải đi tiếp theo hướng xuống đồng bằng. Và khi đó, nếu đơn vị cử thêm toán khác đuổi theo tôi, tôi có nguy cơ bị phát hiện và bị bắt trở lại. Còn nếu đi ngược trở lại theo hướng nam, khi nào gặp đoạn đường băng ngang suối, tôi sẽ ẩn nấp trong bóng tối chờ xe tới rồi nhảy lên, thì an toàn cho tôi nhiều hơn. Đơn vị cử người đuổi theo tôi, chắc chắn chỉ đinh ninh tôi đi từ ngã ba chân đồi xuống phía đồng bằng, chứ không khi nào ngờ, tôi lại đi ngược vô nam cả mấy cây số, rồi ẩn nấp trong rừng, chờ quá giang xe.
Đi bộ không đầy một cây số, quả nhiên tôi gặp một đoạn sông chảy xiết qua mặt đường. Thời đó, các tuyến đường đổ vô Nam đều được giữ bí mật và nguỵ trang một cách khéo léo. Nhất là những đoạn đường xe chạy băng qua sông, qua suối, có thể làm bằng cầu phao, bằng phà nổi, hoặc lót bằng đá, nhưng đều có điểm chung là mặt đường bao giờ cũng thấp dưới mặt nước khoảng hơn một gang tay. Như vậy, nhìn từ trên cao, chỉ thấy mặt nước mênh mông, mà không hề biết, dưới mặt nước là những con đường huyết mạch, CS dùng để chuyên chở người và vũ khí xâm lăng Miền Nam. Bên cạnh những đoạn đường qua sông, qua suối quan trọng đó, bao giờ cũng có những đơn vị phòng không bảo vệ cầu khi cần, những đơn vị thanh niên xung phong lúc nào cũng hô vang khẩu hiểu "tiếng hát át tiếng bom", sẵn sàng lao ra để xây đắp cầu phà, khi cầu phà bị trúng bom.
Vì lúc đó là mùa nước lũ, đoạn đường chạy qua sông mà tôi dừng chân dài khoảng 400, 500 thước, nằm giữa một đầm nước rộng mênh mông. Đó chỉ là một trong số hàng trăm đoạn đường bình thường nằm rải rác trên "đường mòn Hồ Chí Minh" nên không hề có đơn vị nào canh gác. Mặt đường thấp hơn mặt nước khoảng hơn một gang tay, lại làm bằng những tảng đá đủ hình, đủ kiểu xếp cạnh nhau, nên lồi lõm vô cùng. Vì vậy, khi xe hơi chạy đến đây, bắt buộc phải chạy chậm với tốc độ 10, 15 cây số giờ. Đó là tốc độ an toàn, cho phép tôi, trong đêm tối, có thể âm thầm bám vào phía sau xe, rồi nhảy lên xe, mà người tài xế không hề hay biết.
Ẩn mình trong khu rừng già cạnh bờ sông, tôi yên tâm tập luyện mấy bài thể dục khởi động cho máu huyết lưu thông, thân thể dẻo dai, thích hợp với những hành động hiểm nguy đòi hỏi sức lực và sự nhanh nhẹn sắp tới. Tôi hiểu, trong những giây phút gay cấn, đôi khi chỉ vì một bắp thịt nào đó trên cơ thể bị chuột rút bất thình lình, cũng có thể làm đảo lộn mọi chuyện đã được xếp đặt công phu, chuẩn bị kỹ lưỡng.
Tập luyện được khoảng mười lăm phút, tôi nghe có tiếng xe rì rì từ hướng nam vọng tới. Tôi vội vàng xách ba lô, chạy vội ra bìa rừng, và thấy từ xa ánh đèn pha của mấy chiếc quân xa đang chạy tới. Vì đề phòng máy bay Mỹ oanh tạc, nên đèn pha của các chiếc quân xa thời đó đều không chiếu xa, nhưng cũng đủ để tôi nhận ra từ xa có tất cả bốn chiếc. Để không bị tài xế của xe sau phát hiện, trong bốn chiếc, tôi phải chọn chiếc sau cùng để "quá giang". Chờ đợi thêm một phút nữa quan sát thật kỹ, và sau khi chắc chắn, cả đoàn xe chỉ có đúng 4 chiếc, tôi vội vàng chạy vội về phía bờ suối phía nam, nấp vô một bụi rậm của loại cây gì không rõ, nhưng đầy gai và rất ngứa, chờ đợi trong hồi hộp.
Khoảng mấy phút trôi qua, tiếng động cơ xe lớn dần, lớn dần, rồi ầm ầm, từng chiếc lao xuống con đường chạy ngang đầm nước. Khác với những chiếc xe quân đội của Trung Cộng, gọn nhẹ và thấp, bốn chiếc xe tôi thấy đều là loại xe của Nga, cao to, với 3 trục 10 chiếc bánh xe cao lênh khênh. Nhảy loại xe này chắc chắn khó hơn và nguy hiểm so với loại xe của Trung Cộng. Tôi biết vậy, nhưng thì giờ không cho phép tôi suy nghĩ và chọn lựa. Vả lại dù tôi có chờ đợi, đã chắc gì những chiếc xe sau sẽ là xe của Trung Cộng? Trong khoảnh khắc đang do dự băn khoăn, thì chiếc xe thứ tư đã ầm ầm ào xuống đầm nước. Tôi không kịp suy nghĩ, vội chạy ngay theo sau. Chiếc xe lắc lư, nghiêng ngả dữ dội, tiếng động cơ gầm rú, tiếng mấy sợi dây xích phía sau xe đập vào thành xe ầm ĩ, tạo nên cả một rừng âm thanh hỗn loạn, trộn lẫn với tiếng nước chảy xiết, tiếng tim đập liên hồi, khiến tôi thêm hốt hoảng, vội vã. Bình thường, đi bộ qua lòng sông, lòng suối là điều không khó khăn, ngay cả khi nước chạy xiết. Nhưng chạy vội vã theo một chiếc quân xa, trong bóng tối, trong khi mặt đường đầy mấp mô, lô nhô với hàng trăm tảng đá đủ loại, chìm trong nước, là điều không dễ dàng. Khó khăn hơn cho tôi, tay tài xế có lẽ thuộc loại đầu gấu, nên hắn điều khiển chiếc xe chạy với tốc độ nhanh hơn tôi tưởng.
Sau cả chục giây chạy theo xe, vẫn không kịp, tôi tính bỏ cuộc, trởi lại bờ sông, chờ đoàn xe khác. Ngay lúc đó, tôi nghe thấy tiếng động cơ xe phía sau. Giật mình quay lại, tôi thấy một chiếc quân xa khác, cũng đang chiếu đèn pha, thẳng hướng lao tới. Tôi nghĩ rất nhanh, đoạn đường chạy qua đầm nước dài khoảng hơn 400 thước, không hề có chỗ nào có thể ẩn nấp. Con đường tuy mặt đường thấp hơn mặt nước, nhưng lại cao hơn hẳn lòng sông. Nếu nhẩy xuống một trong hai bên, tôi chỉ còn cách phải bơi, và có thể bị nước sông cuốn đi. Còn nếu chạy ngược lại, tôi sẽ bị tài xế của chiếc quân xa sau phát hiện trước khi tôi kịp chạy tới bờ ẩn nấp. Có thể người tài xế không có hành động gì nguy hiểm đối với tôi, nhưng việc phát hiện ra tôi vào lúc nửa đêm chạy đi chạy lại trên đoạn đường vắng, có thể tạo cho y sự nghi ngờ, và biết đâu sự nghi ngờ đó sẽ gây bất lợi cho tôi sau này. Nghĩ vậy, tôi thấy chỉ còn cách duy nhất là phải đuổi kịp chiếc xe trước để "quá giang"... và tôi phải leo lên chiếc xe đó trót lọt, trước khi chiếc xe sau đuổi kịp, để viên tài xế xe sau không kịp nhìn thấy tôi "quá giang lậu".
Trong tích tắc đầy nguy hiểm đó, tự dưng tôi thấy trong người như có một luồng sức mạnh mới. Tôi điên cuồng lao về phía trước với tất cả sức mạnh và sự liều lĩnh của mình... Nói thì lâu, nhưng sự việc diễn ra trong chớp nhoáng, và trong khoảnh khắc không đầy mười giây đồng hồ sau đó, tôi bắt kịp chiếc xe. Việc đầu tiên tôi phải làm là ném mạnh chiếc ba lô vô trong thùng xe cho thân thể nhẹ nhàng và rảnh tay leo trèo. Ném xong chiếc ba lô, tôi vươn tay phải nắm chặt ô sắt vuông trên thành xe bên trái; rồi bàn tay trái của tôi cũng vội vã nắm chặt lấy ô sắt vuông đó. Cả hai ô sắt vuông, một bên trái, và một bên phải trên thành xe, có tác dụng khi thành xe hạ xuống, sẽ trở thành hai bậc thang ở hai bên để người lính đạp vô, leo lên xe dễ dàng.
Khi đã nắm được ô sắt vuông, tôi vội kéo mạnh hai cánh tay, khiến cả người tôi lơ lửng, hai chân tôi đạp loạn xạ, muốn tìm một điểm tựa, mà tôi biết phải có đâu đó ở phía dưới đằng sau xe, nhưng đạp mãi tôi vẫn không thấy. Chiếc xe vẫn vừa lao đi, vừa nghiêng ngửa một cách dữ dội, làm cho thân thể của tôi thêm nặng nề khi đung đưa hết trái sang phải, hết phải sang trái; gân cốt, bắp thịt của tôi bị kéo căng, cổ tôi bị khô ran; hai bàn tay của tôi càng ngày càng nóng rát, mười ngón tay của tôi mỏi dần, mỏi dần... vì kiệt sức, trong khi mồ hôi của tôi toát ra đầm đìa. Tôi hoảng hốt nhận ra, cứ đà này, trong mươi giây nữa, mười ngón tay của tôi sẽ hết chịu đựng nổi, tôi sẽ phải buông tay, thả người rơi khỏi thành xe và sẽ bị nước sông cuốn trôi. Giữa lúc thập phần nguy hiểm đó, không hiểu trời xui đất khiến làm sao, chiếc xe bỗng lồng lộn, nghiêng ngả mấy cái liền, trước khi nghiêng hẳn về bên trái, rồi đứng khựng lại. Tiếp theo là tiếng xe sang số, tiếng gầm rú của động cơ... chiếc xe chồm tới rồi lùi lại... Thì ra sau khi gặp phải liên tục mấy ổ gà, cuối cùng, bánh sau của chiếc xe đã lọt vô một "ổ trâu, ổ bò" nào đó, khá lớn trên mặt đường, nên phải dừng lại. Trong tích tắc phù du nhưng vô cùng may mắn đó, tôi dùng hết sức bình sinh, rút vội hai cánh tay, kéo cả thân mình lên cao, rồi tôi đưa vội chân phải quặp lấy thành của chiếc bẩm sau. Cuối cùng, tôi dùng tay đẩy mạnh cùng với chân phải hết sức kéo vô trong, khiến cả người tôi lật nghiêng, rơi gọn vào bên trong chiếc quân xa. Ngay lúc ấy, chiếc xe cũng rú lên lần cuối, leo khỏi hốc đá, lao thẳng về phía trước...
Tôi nằm yên thở dốc như con cá mắc cạn. Vừa kinh hoàng sau giây phút nguy hiểm thoát chết, vừa bàng hoàng trước sự may mắn bất ngờ mà tôi tin là phải có bề trên phù hộ. Tôi vô cùng ngạc nhiên, sung sướng và tự tin vào vận mệnh của mình trên những chặng đường nguy hiểm trước mắt.
Sau này, trên đường vượt ngục, vượt biên, tôi còn gặp phải nhiều nguy hiểm và thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, như khi bị hai công an áo vàng rượt đuổi và bắn ngay giữa buổi trưa, trên đường phố Huế, mà chạy thoát; hay khi bị lính biên phòng bắn, phải chạy bán sống bán chết vô giữa một bãi chông thép ngay bên bờ sông Ca Long, biên giới Việt Trung, vào một buổi chiều đầu tháng 10 năm 1978, mà không dẵm phải chiếc chông nào.... Mỗi khi, trải qua những hiểm nguy đó, tôi càng thêm tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng của đấng tối cao và sẵn sàng trao gửi tính mệnh của tôi cho niềm tin tôi theo đuổi.
Chiếc xe tôi "quá giang" là một loại quân xa của Nga, phía sau trống trơn, không có mái, không có băng ghế, cũng như bất cứ thứ đồ đạc gì. Trời lúc ấy lại lất phất mưa và trở lạnh. Tôi lấy mảnh nylon trong ba lô trùm kín đầu và người, rồi ôm chiếc ba lô trong lòng, ngồi gọn trong góc xe, cố chống lại cơn buồn ngủ đang bủa vây. Tôi biết, lúc đó nếu tôi ngủ quên, chẳng may xe ngừng lại vì bất cứ lý do gì, tôi sẽ không biết, và khi đó chuyện "quá giang lậu" của tôi sẽ bị phát hiện dễ dàng. Nguy hiểm thứ hai, trên đoạn đường duy nhất từ đây xuống đồng bằng dài gần 5 tiếng đồng hồ, nếu chẳng may, gặp toán bộ đội truy đuổi tôi xin quá giang, và tài xế đồng ý, tôi sẽ dễ dàng bị phát hiện và bị bắt lại. Trong trường hợp đó, ngay cả khi tỉnh thức, tôi cũng chưa biết phải làm gì để thoát thân, huống chi tôi ngủ quên. Trước đó, tôi đoán, trong thời gian 2 tiếng đồng hồ tôi ngủ ở trong rừng, toán bộ đội truy đuổi tôi có thể đã quá giang một chiếc xe nào đó. Nhưng thận trọng, tôi vẫn phải cố gắng tìm đủ mọi cách tính toán, để đối phó nếu tình thế như vậy xảy ra. Sau một hồi suy nghĩ, tôi thấy nếu tài xế chấp nhận dừng xe cho những người bộ đội truy đuổi tôi được quá giang, tôi chỉ có cách liều mạng, lợi dụng lúc trời tối, nhanh chóng và nhẹ nhàng nhảy ngay khỏi xe, chuồn vào rừng, trước khi toán bộ đội leo lên xe. Muốn làm được điều này, tôi phải luôn luôn tỉnh thức, bí mật quan sát đoạn đường trước mặt, để kịp thời phát hiện toán bộ đội truy đuổi tôi và thái độ của người tài xế có chấp nhận cho họ quá giang hay không. Có vậy, tôi mới kịp đối phó để thoát thân.
Quả nhiên, điều tôi lo ngại đã xảy ra. Xe chạy được khoảng hai mươi phút, bỗng dưng tôi thấy phía trước có một toán bộ đội khoảng sáu, bảy người đi bộ cùng chiều xe chạy. Tất cả đều trang bị súng ống đầy đủ. Linh tính báo cho tôi biết, đó chính là toán bộ đội cùng đại đội, đang truy đuổi tôi. Khi xe chạy đến gần, có một người bộ đội quay lại, tay cầm chiếc nón cối vẫy vẫy, xin quá giang xe. Còn 5 người bộ đội kia, không hiểu vì lý do gì, vẫn lầm lũi đi, không mảy may đoái hoài đến việc vẫy xe xin quá giang. Tuy khoảng cách còn xa, ánh đèn pha chập choạng, nhưng tôi nhận ra ngay đó là Th., một người cùng tiểu đội với tôi, gốc Hải Phòng. Tôi hồi hộp và hoảng hốt vô cùng. Ngay khi đó, người tài xế sang số, chiếc xe chạy chậm lại, và tôi kinh hoàng thấy buốt nhói trong tim khi linh tính báo cho tôi biết, người tài xế đang có ý muốn dừng xe cho toán bộ đội quá giang.... Trong lúc tôi đang bối rối, hoảng hốt, chưa biết làm thế nào, thì đột nhiên, trong đám 5 người bộ đội đang lầm lũi đi, có một người quay lại, dơ cao nắm đấm dứ dứ về phía chiếc xe, miệng lẩm bẩm gì đó, nét mặt rất hung dữ. Trong ánh đèn pha, tôi nhận ra ngay đó là Q., người Nùng thiểu số, là tiểu đội trưởng tiểu đội của tôi!
Có lẽ nhìn thấy quả đấm và thái độ không mấy thân thiện của Q., và đám bộ đội đông tới năm, sáu người, ai cũng trang bị đầy đủ súng ống, nên người tài xế đột nhiên đổi ý, sang số, nhấn ga, và chiếc xe rú ga, rùng rùng lao tới trước, để lại phía sau tiếng la ó, chửi bới không ngớt...

KỲ  41

Thật tôi không ngờ, chỉ vì nắm đấm hù doạ của tiểu đội trưởng Q. đã khiến tài xế đổi ý, và nhờ vậy đã giúp tôi thoát nạn. Lúc đó, tôi cũng không hiểu tại sao bỗng dưng tiểu đội trưởng Q. lại dơ nắm đấm hù doạ viên tài xế. Tôi chỉ biết Q. là người thiểu số, thuộc thành phần cảm tình đảng, rất mù quáng, cuồng tín, trung thành với "đảng Bác" vô cùng. Vốn là người Nùng, Q. rất khỏe, tóc mọc thẳng và cứng như rễ tre, lông mày rậm như hai con sâu róm, hai mắt lồi như hai con ốc nhồi, lòng trắng đầy gân máu, mỗi khi y tức giận điều gì, cả cặp mắt của y bỗng đỏ ngầu, tiếng nói của y trở nên lắp bắp, lồng ngực của y phập phồng như hai tấm phản gặp cuồng phong, và khi cơn giận bùng nổ, y sẵn sàng đập phá bất cứ thứ gì có ở trước mắt, bất chấp hậu quả. Trong tiểu đội tôi, ai cũng kinh hãi khi thấy Q. nổi giận. Nhưng tối hôm đó, tôi không hiểu sao Q. lại dơ nắm đấm về phía người tài xế. Thú thực, lúc đầu khi thấy Q. dơ nắm đấm về phía viên tài xế, tôi hoảng hốt, tưởng Q. biết có tôi ngồi trên xe, nên vô tình, vội thu người lại. Đến khi xe chạy qua, tôi mới hiểu, nắm đấm của Q. khi đó là dành cho tài xế. Nhưng tại sao Q. lại dơ nắm đấm dọa tài xế, thì quả tình lúc đó tôi không hiểu. Mãi mấy tháng sau, khi trở lại đơn vị "nạp mạng" để phải trải qua những cuộc đấu tố dai như đỉa của đơn vị, tôi mới biết, đêm hôm đó, trên chặng đường truy đuổi tôi suốt 2 tiếng đồng hồ trước đó, toán bộ đội do Q. chỉ huy đã nhiều lần vẫy xe xin quá giang, nhưng không lần nào thành công. Vì thế, khi gặp chiếc xe tôi "quá giang" lậu, Q. vừa chán, vừa tức giận không thèm xin quá giang, vì y đinh ninh có xin quá giang cũng không thành công. Không những thế Q. còn dở thói côn đồ, dơ nắm đấm hù doạ và chửi bới viên tài xế. Q. không thể ngờ, chính thói côn đồ của y đã giúp tôi vượt qua được một cửa ải nguy hiểm do y giăng mắc.
Thoát khỏi nguy hiểm lần này, tôi vừa mừng vừa lo. Tôi thấy suốt từ lúc rời khỏi đơn vị cho đến giờ, tôi đã gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng toàn gặp những may mắn. Tôi biết, những may mắn như vậy sẽ không thể đến mãi, và không sớm thì muộn, tôi sẽ phải gặp rủi ro. Vì vậy, tôi cần phải cẩn thận thật nhiều trong những chặng đường sắp tới, vì những rủi ro nguy hiểm đang chờ đợi tôi.
Xe chạy được khoảng nửa tiếng đồng hồ nữa trong đường rừng, tôi bỗng thấy phía trước, có 3 người đeo súng, đang đạp xe cùng hướng xe chạy. Tôi linh cảm, 3 người lính đó cũng đang trên đường truy đuổi tôi. Nhưng vì trời tối, ánh đèn pha của xe lại không chiếu xa (vì sợ máy bay Mỹ oanh tạc), nên tôi không thể nhận ra họ là ai. Sau này, khi trở lại đơn vị, tôi mới biết, linh cảm của tôi là đúng. Thì ra, sau khi ra lệnh cho Q. tiểu đội trưởng mang nửa tiểu đội đi bộ truy đuổi tôi, ban chỉ huy đại đội nhận ra, dùng người đi bộ đuổi người đi bộ, khó có cơ hội đuổi kịp, nên đã cho 3 người lính trinh sát đi xe đạp đuổi tôi cho nhanh. Nhưng họ đã không nghĩ tới 2 điểm quan trọng. Một, khi xuống tới đường lộ, tôi đã không dại dột rẽ phải về hướng bắc để đi thẳng xuống đồng bằng ngay. Trái lại, tôi đã rẽ trái đi về hướng nam khoảng mấy cây số, rồi chui vô rừng rậm nằm nghỉ, khoảng hai tiếng, trong khi cả hai toán bộ đội truy đuổi tôi vẫn tiếp tục lao về hướng bắc, và càng đi thì họ lại càng cách xa tôi mà không hề hay biết. Điểm quan trọng thư hai họ không ngờ tới là tôi có thể "quá giang lậu" một trong những chiếc xe từ nam ra bắc. Chính hai yếu tố bất ngờ này đã giúp tôi thoát khỏi cuộc truy lùng của đơn vị.
Nhưng đó chỉ là những may mắn bước đầu. Trước mắt tôi sẽ còn phải đối phó với rất nhiều khó khăn. Dĩ nhiên, khi cả hai toán bộ đội truy đuổi tôi đều không bắt được tôi, họ sẽ tìm cách báo cho ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn và có thể cả sư đoàn biết để đối phó. Lúc ấy, họ sẽ đoán ra được, tôi đã quá giang một chiếc xe nào đó, và sẽ tìm cách chặn xét tại các trạm gác giao thông ở các bến xe, bến phà. Đây là điều tôi lo xa, chứ thực ra tôi cũng biết, đối phó với một người "bộ đội quèn", cấp bậc binh nhì như tôi, chưa chắc gì ban chỉ huy đại đội đã báo cáo lên thượng cấp trong vòng 48 tiếng đồng hồ đầu tiên. Thông thường, những vấn đề nghiêm trọng như đảo ngũ, rã ngũ, quậy phá nhà dân nơi đóng quân, "hủ hoá", hay có xung đột, ẩu đả với cán bộ, công an của chính quyền an địa phương... ban chỉ huy đại đội, hay tiểu đoàn, thường giấu diếm, cố gắng giải quyết trong nội bộ, để khỏi ảnh hưởng đến thành tích thi đua của đơn vị. Sau 48 tiếng đồng hồ, ban chỉ huy đại đội hay tiểu đoàn không giải quyết được nội vụ, lúc đó họ mới báo cáo thượng cấp. Thêm vào đó, mạng lưới thông tin trong quân đội cũng như xã hội dân sự ở Miền Bắc lúc đó còn rất thô sơ, lạc hậu. Điện thoại vô tuyến cũng như hữu tuyến chỉ dùng để liên lạc giữa các đơn vị tại mặt trận. Còn tại hậu cứ, việc sử dụng những thứ đó rất hạn chế, nhất là khi liên lạc với chính quyền dân sự, vì trang bị của chính quyền dân sự rất thô sơ. Vì thế, tôi tin tưởng trong thời gian 48 tiếng đồng hồ đầu tiên, dù cho có dự đoán được khả năng tôi quá giang xe trên đường đào thoát, ban chỉ huy đại đội không đủ khả năng, cũng như thẩm quyền để điều động một cuộc truy lùng rộng khắp tại các trạm gác ở các bến xe, bến phà.
Nghĩ đi đã vậy, nghĩ lại, tôi thấy không gì bằng sự thận trọng trong mọi tình huống. Lúc đó, tôi đã có sẵn trong người giấy tờ công tác do chính sư đoàn trưởng cấp với chữ ký và con dấu đầy đủ. Ngoại trừ tên giả do tôi phịa ra, còn tất cả đều là thật 100%. Tôi đoán, nếu đơn vị có báo cho các trạm gác biết có người đào ngũ tên là Nguyễn Hữu Chí, thì họ cũng không thể ngờ được, tôi lại có sự vụ lệnh thật với tên giả, không phải là tên Nguyễn Hữu Chí. Tôi cũng xin thưa thêm để quý độc giả hiểu, thời buổi đó, ở Miền Bắc, chế độ CS kiểm soát con người vô cùng chặt chẽ, mà không cần đến giấy tờ, thẻ căn cước. Bằng chính sách kiểm soát chặt chẽ lương thực, thực phẩm; cộng với ảo tưởng của người dân đối với chế độ CS, đã sản sinh ra cả một mạng lưới "công an nhân dân, mỗi người dân là một người công an" bao trùm tất cả mọi nơi, mọi lúc. Chính vì hai yếu tố quan trọng này, nên trong mọi sinh hoạt, người bộ đội chỉ có những giấy tờ tuỳ thân rất đơn giản, đánh máy trên một tờ giấy nhàu nát, đen đủi, hoặc không có một thứ giấy tờ gì trong người, ngoại trừ đơn vị trưởng, khi thi hành công vụ. Trong hoàn cảnh đó, tôi tin tưởng, với sự vụ lệnh thật do chính sư đoàn trưởng cấp, tôi sẽ qua mặt dễ dàng các trạm gác từ Thanh Hoá, Nghệ An, trở ra Hà Nội. Riêng với những trạm gác tại vùng tỉnh Quảng Trị, tôi vẫn lo ngại, có thể gặp người quen của đơn vị, hoặc biết đâu, những người được lệnh đang truy đuổi tôi, nhờ một sự may mắn nào đó, có thể quá giang được xe, đến được những trạm gác đó trước tôi, đóng chốt chờ tôi tới nộp mạng. Nghĩ như vậy, tôi thấy tốt nhất vẫn là tránh tất cả những trạm gác ở các bến phà, bến xe. Nếu có đi xe khách, tôi sẽ không mua vé ngay tại bến, vì nơi đó, công an, bộ đội luôn luôn hiện diện. Thay vì vậy, tôi chọn giải pháp đợi xe ở một nơi cách bến xe khoảng một, hai cây số, rồi vẫy xe quân sự đi nhờ, hoặc vẫy đón xe khách rồi trả tiền vé.
Xe chạy tiếp khoảng 4 tiếng đồng hồ thì trời hửng sáng. Đến lúc đó, người tài xế vẫn không hề hay biết, trong thùng xe phía sau có một người "quá giang". Nhìn đường xá, tôi biết, khoảng hai tiếng nữa, xe sẽ qua phà. Vì lâu ngày quá, nên tôi không còn nhớ tên của bến phà này, mong quý độc giả thông cảm. Đến lúc này, tôi thấy đã đến lúc cần phải làm quen với tay tài xế và cho biết, mình đã "quá giang lậu" để xem thái độ của y như thế nào. Nếu thuận lợi, tôi sẽ quá giang xe của y đi tiếp, càng xa càng tốt, trên chặng đường ra bắc. Còn nếu không thuận lợi, tôi sẽ khéo léo chia tay, tìm xe khác quá giang.
Tôi phải làm như vậy là vì tại các trạm gác ở các bến phà bao giờ cũng kiểm soát rất nghiêm ngặt các xe cộ và người qua lại. Tại những trạm gác này, nếu tôi tiếp tục ngồi trên xe, tôi sẽ bị phát giác dễ dàng, và khi đó sẽ rất bất lợi cho tôi, dù tôi có xuất trình giấy tờ hợp lệ. Còn nếu như tôi xuống xe, trình giấy tờ đầy đủ tại trạm gác, tôi có thể rủi ro bị người của đơn vị đóng chốt ở đó phát hiện. Tốt nhất, khi xe xếp hàng chờ xuống phà, mọi người trên xe phải xuống xe, xếp hàng trình giấy tờ, tôi sẽ tìm cách, tuỳ cơ ứng biến, lẩn trốn việc trình giấy tờ.
Thông thường việc trốn trình giấy tờ là điều rất khó tại các trạm gác. Nhưng nếu tinh ý một chút, ta có thể qua mặt lính gác một cách dễ dàng, bằng cách làm những việc sau đây. Thứ nhất là đừng có mang bất cứ hành lý gì trong tay khi đi lại. Thứ hai, nên cởi trần, hoặc chỉ mặc áo lót. Thứ ba, giữ thái độ bình thản, nhàn tản của người địa phương. Quả nhiên, mỗi khi làm như vậy, tôi đều thản nhiên đi qua trạm gác, mà không hề bị xét hỏi giấy tờ.
Khoảng 7 giờ sáng, xe dừng lại tại bến phà đầu tiên. Trước mặt tôi về phía bên phải là một dẫy xe cộ đủ loại tới khoảng 20 chiếc đang chờ kiểm soát giấy tờ. Phía bên trái là đoàn người dài tới hơn trăm thước cũng đang xếp hàng chờ kiểm xét giấy. Giữa đường, lác đác một số người đi lại, ăn mặc đủ hình đủ kiểu, nhưng tất cả đều rách rưới, sầu muộn và đói khổ. Họ là những phu khuân vác, người bán hàng rong, người ăn xin, người đi gánh nước, người đi tắm giặt, hay đánh cá về muộn...
Tôi nhảy xuống xe, nhưng ba lô vẫn để lại trong thùng xe. Sau khi quan sát cách ăn mặc, đi đứng của người địa phương, tôi kín đáo cởi chiếc áo bộ đội, vắt lên vai, chỉ mặc chiếc có chiếc áo lót. Tiếp đến, tôi cởi luôn đôi giầy, buội giây giầy của hai chiếc vô một, rồi đi chân đất, quần xắn móng lợn bên cao bên thấp... Xong tôi thản nhiên lững thững đi theo một người đàn ông quảy hai chiếc xọt xuống bờ sông. Tôi đi qua trạm gác, liếc vô thấy mấy người lính gác đang chúi mũi lo kiểm tra giấy tờ đoàn người, không một ai thèm ngẩng đầu ngó chúng tôi. Khi xuống đến bến sông, tôi lặng lẽ bước lên chiếc phà, không một ai để ý, và cũng chẳng một ai quan tâm. Trung bình mỗi chuyến phà chỉ chở được khoảng 10 chiếc xe hơi, còn xe đạp và người thì không giới hạn. Sau khi sang được bên kia sông, tôi phải chờ cho chiếc xe tôi "quá giang" qua phà, rồi tìm cách kín đáo leo lên xe đi tiếp...                                            

KỲ  42

Sau khi trải qua những nguy hiểm ban đầu, trên suốt chặng đường từ Quảng Bình về đến nhà, với tờ giấy phép có chữ ký của sư đoàn trưởng, và con dấu của sư đoàn, tôi không hề gặp khó khăn trở ngại nào. Nhưng điều khiến tôi lo ngại bây giờ, chính là những nguy hiểm tại địa phương, một khi tôi về đến nhà. Trên đường đi, tất cả các trạm gác đều không biết rõ tôi là ai, nên với giấy tờ giả mạo, tôi dễ dàng qua mặt được họ. Hơn nữa, tôi chỉ là một trong số hàng chục ngàn bộ đội trốn đơn vị về thăm nhà, nên đơn vị của tôi không thể nào mở cuộc truy lùng tôi trên mọi tuyến đường của Miền Bắc. Tuy vậy, tôi biết chắc chắn, đơn vị của tôi sẽ gửi giấy báo tôi đào ngũ về tận địa phương. Vì sống trong một xã hội khép kín cộng với chế độ tem phiếu, và guồng máy kiểm soát của đảng và nhà nước cộng sản bao trùm mọi mặt của cuộc sống, nên hầu hết những ai đào ngũ cũng chỉ dám đào ngũ tạm thời một vài tuần lễ, sau đó phải trở lại đơn vị. Qua chuyện trò với một số người lính đào ngũ trong đơn vị, tôi biết được, mỗi khi có người đào ngũ, đơn vị chỉ đánh điện tín về uỷ ban xã, nơi người lính đó có gia đình và từng cư trú trước khi đi bộ đội. Trong điện tín, đơn vị chỉ ghi có vỏn vẹn tên tuổi, địa chỉ cư ngụ của người đào ngũ, và yêu cầu uỷ ban xã tìm mọi biện pháp để tạo áp lực buộc người lính đào ngũ trở lại đơn vị gấp. Vì là một bức điện tín, nên chẳng có con dấu, chữ ký hay bất cứ thứ gì khác chứng tỏ thẩm quyền của người đánh điện tín. Nói cách khác, vì kỹ thuật truyền thông ở Miền Bắc lúc đó quá thô sơ và lạc hậu, nên bất cứ một người nào, mặc đồ bộ đội, vô một bưu điện địa phương, đều có quyền đánh đi một bức điện tín với bất cứ nội dung nào. Đây chính là lỗ hổng tôi có thể khai thác, nếu tôi biết tận dụng tờ giấy đi công tác mà tôi có. Vì biết rõ như vậy, nên tôi quyết định về quê thăm Thầy, bất chấp những nguy hiểm đang chờ đợi.
Tôi bước vô sân nhà vào một buổi chiều, khi hoàng hôn đã bao phủ vạn vật. Cảnh vật tất cả vẫn như xưa. Hàng rào râm bụt vẫn xanh tươi, bên cạnh dàn hoa tràng pháo lao xao trong gió như nhắc nhở tôi bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của quá khứ. Chiếc bể nước vẫn còn đó, im lìm bất động nhưng ẩn chứa muôn vạn lời thì thầm về những mộng mơ tôi hằng ao ước và ấp ủ, vào những buổi tối mùa hè oi bức, nằm trên mặt bể, ngước mắt nhìn bầu trời đầy sao, lắng nghe Thầy tôi kể chuyện...
Mấy người cháu, con của ông anh, đang chơi đùa ở sân, trông thấy tôi vội reo lên:
- Chú Chí!.... Chú Chí đã về!...
Sau mấy tiếng reo vui, Hoa, cô cháu gái lớn nhất vội ghé tai tôi thầm thì, giọng có vẻ bí mật và lo ngại:
- Hôm trước có công an xã đến đòi bắt chú...
Tôi chưa kịp hỏi Hoa, thì Thầy tôi từ trong buồng bước ra. Chỉ trong có không đầy một năm trời xa cách, Thầy tôi trông già hẳn đi, lưng còng hẳn xuống. Chỉ có hàm râu bạc trắng như cước, dài đến rốn là vẫn như xưa. Thầy tôi hỏi, giọng ưu phiền:
- Mày về phép hay đào ngũ đó?
Nghe câu hỏi của Thầy, và câu nói thì thầm của Hoa lúc trước, tôi biết ngay, đơn vị của tôi đã đánh điện về ủy ban xã, báo tin tôi đào ngũ, và uỷ ban xã đã đến gặp gia đình tôi. Vì đã lường trước chuyện này, nên tôi bước đến cạnh Thầy, cầm lấy bàn tay run run của Thầy và thưa:
- Thầy yên tâm, con đi công tác.
Ngay lúc đó, anh của tôi từ trong nhà bước ra. Không một nụ cười, không một lời chào hỏi, anh tôi nói, giọng lo lắng, nét mặt nghiêm trọng:
- Chú vô ngay trong nhà, anh hỏi...
Quay sang phía Thầy, anh nói tiếp:
- Thầy vào trong phòng nghỉ đi, để con "làm việc" với chú ấy.
Thầy nhìn tôi ái ngại, rồi thở dài quay vô buồng. Đó là căn phòng nhỏ vừa đủ kê hai chiếc giường, một chiếc cho Thầy và một chiếc cho tôi trước đây. Không biết bây giờ, chiếc giường cho tôi có còn đó không nhỉ? Tôi tự hỏi, rồi thản nhiên đi theo anh vô trong nhà. Tôi thản nhiên vì tôi biết, chuyện một người bộ đội đào ngũ chẳng có gì là quan trọng, miễn sao người bộ đội đó chấp nhận lên đường trở lại đơn vị. Điều đó, tôi đã sẵn sàng, vì tôi có trở lại đơn vị thì tôi mới có thể đi tiếp con đường tôi định đến là bầu trời tự do của Miền Nam, nơi có 4 người chị, cùng đông đảo họ hàng, hàng xóm của gia đình tôi đang sống. Tôi sẽ đến vùng trời tự do đó bằng bất cứ giá nào. Quyết tâm đó tôi giữ kín trong lòng, chẳng một ai biết. Và tôi nghĩ, một người khi đã chấp nhận hy sinh để quyết tâm làm một điều mình tin tưởng là đúng, thì người đó thấy trong lòng thanh thản lạ lùng.
Bước vô nhà, bỏ ba lô xuống, tôi ngồi vào chiếc ghế trống, đối diện với anh tôi. Lũ cháu bốn, năm đứa xúm xít chung quanh, mở to những cặp mắt ngây thơ, đen nhánh, nhìn tôi với vẻ tò mò và lo ngại. Anh tôi trừng mắt nhìn lũ trẻ, khẽ hất cằm. Chúng nó hiểu ý, lập tức riu ríu kéo nhau ra khỏi phòng. Nhìn điệu bộ hoảng hốt, lo ngại của anh, tôi biết, anh tôi lo cho tôi thì ít, mà lo chuyện đào ngũ của tôi sẽ ảnh hưởng đến công danh, sự nghiệp của anh thì nhiều....
Sống trong chế độ cộng sản, ai ai cũng khổ. Ngay cả những người cộng sản có tiền có thế, cũng phải chịu đựng nhiều nổi khổ cực, giầy vò, vì những gian dối, giấu diếm của mình, của người, của vợ con. Nhưng tôi nghiệm ra, trong số những nạn nhân của cộng sản, tất cả những ai dại dột, ngây thơ chạy theo ảo tưởng, danh vọng do cộng sản thêu dệt, họ sẽ là những nạn nhân phải chịu đựng nỗi đau khổ thê thảm gấp bội, và chính họ sẽ là thủ phạm mang đến muôn vàn khổ đau cho vợ con và những người thân chung quanh. Ông anh tôi là con "địa chủ cường hào ác bá", bản thân lại thuộc thành phần "tạch tạch sè" (tiểu tư sản), nhưng vì chạy theo ảo tưởng muốn thành đảng viên cộng sản, nên cả cuộc đời cố gắng "phấn đấu"... để rồi cuối cùng, mọi tham vọng vẫn mãi mãi ngoài tầm tay với.
Tôi nhìn anh tôi thản nhiên chờ đợi. Trong nhà im phăng phắc. Bóng tối đã ùa vào phòng. Ngọn đèn hoa kỳ leo lét, nhưng cũng đủ để tôi nhìn thấy gương mặt khắc khổ của anh, và trên mặt bàn, hai bàn tay của anh đan vào nhau trong tư thế trịnh trọng quen thuộc mỗi khi anh nói chuyện trước đám đông.
- Hai hôm trước, "đồng chí" bí thư, "đồng chí" chủ tịch xã và "đồng chí" xã đội trưởng có đến nhà mình hỏi thăm về chú...
Nói đến đó, anh dừng lại nhìn tôi thăm dò phản ứng. Là một người được xếp vào diện "cảm tình đảng" (cho dù mãi mãi  cũng chỉ là "cảm tình đảng" chứ không bao giờ được kết nạp vô đảng), anh tôi vẫn có thói quen gọi các cán bộ của cộng sản là "đồng chí".
Nghe anh nói, thì ra, cả đảng uỷ, hành chánh lẫn cả quân sự cùng đến nhà tôi để hù doạ ông anh đáng thương của tôi. Tôi ngồi bất động và lặng im chờ đợi. Phần thì tôi quá mệt mỏi, lại khát nước, phần tôi biết quá rõ đường đi nước bước của bí thư, chủ tịch xã, lẫn cả xã đội trưởng, cũng như cách thức tôi sẽ đối phó với họ như thế nào ở thế thượng phong, nên tôi đâu có ngán. Dù sao tôi cũng là một "bộ đội" chuẩn bị lên đường "đi B cứu nước", trong túi tôi lại có giấy công tác do chính sư đoàn trưởng cấp, với chữ ký và con dấu đàng hoàng. Tất cả đều thật trăm phần trăm, kể cả tên họ thật của tôi là Nguyễn Hữu Chí. Sư đoàn trưởng, một cấp bậc vô cùng to lớn đối với mấy "đồng chí" bí thư, chủ tịch ở một xã nhỏ bé của nông thôn Miền Bắc, vì ngay cả bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch tỉnh còn phải kinh sợ. Từng đóng quân ở các làng xã của Việt Nam trong thời gian huấn luyện, tôi biết, ngay cả một viên sĩ quan cấp uý, cấp bậc đại đội trưởng còn hét ra lửa, khiến mấy nhân viên hành chánh từ huyện ủy đến chủ tịch xã đều phải run sợ, nên tôi biết tờ giấy công tác tôi có trong túi sẽ có sức mạnh như thế nào.
Anh tôi nói tiếp:
- Họ hỏi chú có về nhà hay không. Anh rất ngạc nhiên nói từ khi chú lên đường "vô Nam cứu nước" đến giờ, chưa bao giờ chú về nhà. "Đồng chí" bí thư liền đưa cho anh coi bức điện tín từ đơn vị của chú đánh về, nói là chú đào ngũ...
Anh ngưng lại chờ đợi tôi phản ứng. Tôi vẫn im lặng. Anh liền hỏi, giọng hơi sẵng:
- Chú đào ngũ có phải không?
Rồi không đợi tôi trả lời, anh nói tiếp, giọng gay gắt:
- Chú làm như vậy là không được. Vì tương lai của chú, chú phải trở lại đơn vị ngay lập tức. Chú làm vậy là hỏng hết mọi chuyện. Cả Thầy và anh đã hứa với họ, nếu thấy chú về là phải báo cáo cho họ biết ngay tức khắc, và phải tìm mọi cách để "động viên" chú lên đường "tòng quân cứu nước"....
Tôi thở dài, rồi nhẹ nhàng nói:
- Em không đào ngũ!
Anh tôi ngạc nhiên, nhìn tôi trong mấy giây, rồi gặng hỏi:
- Chú không đào ngũ?
- Không!
- Vậy chú về nhà làm gì?
- Em về thăm Thầy, Mẹ, thăm anh, chị và các cháu.
- Nghĩa là chú được về phép?
- Em đi công tác.
Anh tôi ngạc nhiên:
- Chú đi công tác?
- Vâng.
- Vậy sao chú lại về nhà?
- Trên đường đi công tác, em ghé thăm nhà.
Anh nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ. Đã từ lâu, anh biết tôi là thằng liều lĩnh, dám làm những chuyện động trời. Trong nhà, Thầy vẫn bảo, anh tôi có cặp mắt trâu nên rất nhát. Con trâu to kềnh, nhưng có cặp mắt nhìn cái gì cũng phóng to gấp trăm lần, nên thấy thằng bé chăn trâu, cứ ngỡ là người khổng lồ, sợ một phép.
- Chú đi công tác vậy có giấy tờ gì không?
- Em có đầy đủ.
- Giấy của ai cấp?
- Của sư đoàn.
- Đâu chú đưa anh coi xem.
Tôi móc túi, lấy tờ giấy gấp tư bọc cẩn thận trong một tờ giấy bóng, đưa cho anh. Để cho tờ giấy có vẻ đúng là giấy thật, tôi đã cố tình làm cho nó nhàu nát một chút, dính mồ hôi một chút, và có vẻ cũ một chút.
Cầm tờ giấy đưa gần về ngọn đèn, anh tôi chăm chú đọc. Nhìn ánh mắt của anh tôi đọc đi rồi đọc lại, coi kỹ con dấu và chữ ký, tôi biết, anh tôi không tìm ra dấu vết nào là giả, nhưng vì biết tính tình của tôi, nên anh vẫn bán tín bán nghi.
Sau khi coi kỹ xong, anh ngẩng mặt nhìn tôi hỏi một câu thừa thãi:
- Giấy công tác này là thứ thiệt?
Tôi hỏi ngược lại:
- Anh có thấy chỗ nào giả không?
Anh nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Chú nói thật với anh, chú đào ngũ hay chú đi công tác?
Tôi trả lời chắc như đinh đóng cột:
- Anh đọc giấy là anh biết, em đi công tác...
Anh tôi lắc đầu:
- Đọc giấy tôi không tin. Tôi muốn chú trả lời anh một cách thành thực...
- Em đã trả lời anh rồi đó.
- Tôi muốn chú nói lại một lần nữa.
- Vâng, em nhắc lại với anh một lần nữa, em đi công tác.
- Chú phải biết, là các "đồng chí" trong xã ủy, xã đội sẽ "làm việc" với chú, chứ không phải chuyện chơi đâu.
- Anh cứ yên tâm, em sẽ xuống nhà chủ tịch xã trình giấy tờ công tác đàng hoàng và em sẽ "làm việc" với họ.
Anh gật đầu, có vẻ thoả mãn. Với tay lấy bình nước, rót vào ly, đẩy ly về phía tôi, anh nói:
- Chú uống nước đi. Tha lỗi cho anh, vì lo cho chú, nên quên cả mời chú uống nước.
Tôi cầm ly nước, uống một hơi cạn ly. Tính uống ly nữa, thì anh tôi sực nhớ tới bức điện tín, vội hỏi:
- Ủa, chú nói chú đi công tác, vậy sao có bức điện tín từ đơn vị đánh về nói chú đào ngũ?
Tôi cũng làm ra vẻ ngạc nhiên không kém:
- Anh đã coi kỹ bức điện tín đó chưa?
- Thì chính mắt anh coi rất kỹ. Điện tín như vậy làm sao mà giả được. Chính bưu điện ở đây gửi tới tận nhà "đồng chí" chủ tịch xã.
- Em không nói bức điện tín là giả, nhưng em nói người đánh điện tín phải là giả.
- Chú nói vậy là thế nào, anh không hiểu?
- Có nghĩa là người đánh bức điện tín là một tên nào đó, không phải là "thủ trưởng" trong đơn vị của em.
- Nhưng tại sao người đó lại biết rõ họ tên, địa chỉ của chú?
- Ý em muốn nói là người đánh bức điện tín đó có thể là một người trong đơn vị em, nhưng không phải là cấp chỉ huy trong đơn vị.
- Tại sao người trong cùng đơn vị của chú lại làm chuyện đó?
- Có thể vì họ ghét em, hay vì một lý do nào đó, em không biết. Anh biết mà, đánh điện tín, thì ai ra bưu điện đánh chả được, muốn viết thế nào chả xong, miễn sao có tiền trả. Anh cứ yên tâm đi, chuyện này khi về đến đơn vị, em sẽ làm rõ trắng đen mọi chuyện, rồi cho anh biết.
Nghe tôi nói với giọng quả quyết và nét mặt đầy tin tưởng,bình tĩnh, anh thấy có lý, nên gật gù nói:
- Bây giờ thế này, chú đi xa về chắc là đang đói. Nhưng việc này rất quan trọng, phải giải thích "đả thông tư tưởng" làm sao để các "đồng chí lãnh đạo" hiểu rõ. Vì vậy, để mừng chú về chơi, anh sẽ bảo chị ở nhà nấu cơm chờ. Còn bây giờ anh với chú đi xuống nhà "đồng chí" chủ tịch xã để trình bầy vấn đề. Chú thấy thế nào?
- Anh nói vậy rất đúng. Em đi với anh ngay bây giờ để anh yên tâm, tránh phiền phức cho anh và gia đình mình...
Anh tôi vội vã quay ra, hạ chiếc xe đạp treo lơ lửng dưới mái nhà bằng hai sợi dây, bê chiếc xe qua bậu cửa, qua hè rồi xuống đến sân. Tôi bước ra theo anh.... Ngay lúc đó, có tiếng chó sủa, nhìn ra ngõ, trong bóng tối, chỉ có chút ánh sáng từ ngọn đèn hoa kỳ ở trong nhà chiếu ra mờ mờ, tôi thấy thấp thoáng bốn, năm bóng đen đang đi vô. Tiếp đó, tiếng chào hỏi ầm ĩ, ra vẻ thân mật xuồng xã nhưng vẫn không giấu được sự trịnh thượng của những người chức sắc cho chế độ. Vì mới xa quê chưa bao lâu, nên tôi nhận ra ngay, bốn, năm bóng đen bước vô nhà là chủ tịch xã, bí thư xã uỷ, xã đội trưởng và hai người du kích có trang bị súng ống đàng hoàng. Thì ra, có thể uỷ ban xã đã cho cho người theo dõi nhà anh tôi từ mấy ngày qua, hoặc ngay khi tôi về đã có người trông thấy, vội báo cho uỷ ban xã biết. Lập tức, họ vội kéo đến nhà tôi với ý định bắt tôi ngay tại trận về tội đào ngũ.

KỲ  43

Với sự hiện diện của mấy người cán bộ của nhà nước địa phương, không khí trong nhà bỗng dưng khác hẳn. Chiếc đèn hoa kỳ tù mù được thay thế bằng chiếc đèn lớn hơn, tỏa ánh sáng nhiều hơn và rộng hơn. Chiếc đèn này bình thường được ngự trị trên tủ cao. Chỉ khi nào nhà có "khách quý" thuộc loại chức sắc của nhà nước, nó mới được hạ phong để ngắm nghía dung nhan những vị khách lạ. Chiếc ấm trà cũng được đem ra xúc rửa sạch sẽ. Một phong trà mới tinh được mở ra trước mặt những vị "khách quý". Bao thuốc lá Tam đảo cũng được ông anh tôi trịnh trọng đặt lên bàn. Tiếng chào hỏi của mọi người nghe rôm rả, vui vẻ và thân mật, nhưng không giấu nổi sự căng thẳng, nhất là khi có mặt của hai người du kích trang bị súng ống.
Quanh chiếc bàn chỉ có 4 chiếc ghế. Anh tôi và tôi ngồi hai chiếc. Còn hai chiếc dành cho chủ tịch xã và bí thư đảng uỷ xã. Mấy chiếc ghế đẩu được mang ra cho xã đội trưởng và hai người du kích. Ngay lúc đó, bí thư đảng uỷ xã ghé tai xã đội trưởng thì thầm, xã đội trưởng gật đầu, rồi quay sang bảo hai người du kích ra ngoài hiên đứng.
Vì chuyện xảy ra đã lâu ngày, nên tôi không nhớ tên một ai trong số những vị "khách quý" đến nhà hôm đó. Nhưng tất cả những người cán bộ cộng sản từ cấp xã ấp cho đến trung ương, bao giờ cũng nói chuyện với luận điệu tuyên truyền, áp đảo.
Sau những câu chào hỏi xã giao, bí thư đảng uỷ xã, ngồi ở ghế đối diện với anh tôi, cất tiếng hỏi:
- Hôm nay chúng tôi trong ủy ban xã và đảng uỷ xã đến đây trước hết là thăm hỏi gia đình và "đồng chí" Chí vì được tin báo là "đồng chí" vừa mới ghé thăm nhà. Sau là chúng tôi cũng muốn biết "đồng chí" Chí về thăm nhà lần này có giấy phép của đơn vị hay không?
Anh tôi lễ pháp đáp:
- Thay mặt cho gia đình, tôi xin có lời cảm ơn các "đồng chí" đã ghé thăm. Đêm hôm như thế này, mà các "đồng chí" không quản ngại thời gian, đường xá xa xôi, ghé thăm gia đình chúng tôi, khiến chúng tôi rất cảm động. Còn về chú Chí thì cũng xin được "báo cáo" với các "đồng chí" là chú trên đường đi công tác, có ghé thăm nhà trước khi chú trở lại đơn vị để lên đường đi B chiến đấu. Chú có giấy đi công tác đầy đủ. - Quay sang tôi, anh nói tiếp - Chú trình giấy tờ công tác cho các "đồng chí" kiểm tra...
Tôi rút tờ giấy công tác để xuống mặt bàn rồi đẩy về phía bí thư đảng uỷ xã. Bí thư đảng uỷ xã cầm tờ giấy đưa cho chủ tịch xã đọc, rồi nhìn tôi, y hắng giọng:
- "Đồng chí" Chí đi công tác, nhân tiện ghé thăm nhà, trước khi lên đường đi B chiến đấu là điều đảng uỷ và uỷ ban rất hoan nghênh tinh thần chiến đấu của "đồng chí". Chúng tôi ở hậu phương sẽ hết sức yểm trợ tiền tuyến. Chúng tôi sẽ cố gắng làm đầy đủ bổn phận theo đúng chính sách đãi ngộ của đảng và nhà nước đối với những người đi B cũng như những gia đình có con em đi B. Nhưng trước khi nói đến chính sách đãi ngộ, chúng tôi cũng nói thẳng để "đồng chí" biết, hai tuần trước, ủy ban có nhận được bức điện tín từ đơn vị của "đồng chí", báo tin là "đồng chí" đã đào ngũ. Ngay sau khi nhận được, "đồng chí" chủ tịch đã đến gặp tôi, và cả hai chúng tôi đã đến nhà "đồng chí" tìm hiểu tình hình thì được biết là "đồng chí" không hề về nhà. Bây giờ nghe "đồng chí" cho biết là "đồng chí" đi công tác, có giấy phép đàng hoàng thì chúng tôi lại càng hoan nghênh, nếu đó là sự thực. Nhưng cho đến bây giờ thì chúng tôi không biết thực hư thế nào, yêu cầu "đồng chí" giải thích?
Trước khi quyết định trở lại quê nhà, tôi đã lường trước được chuyện gì sẽ xảy ra, và đã nghĩ đến cách thức để đối phó. Tôi biết, toàn bộ mạng lưới cầm quyền địa phương, từ quận xuống đến xã ấp, của nông thôn Miền Bắc luôn luôn nhường nhịn những người bộ đội đi B. Những câu chuyện, bộ đội đi B ngang ngược phá phách, hành hung công an, cán bộ địa phương, tại các tiệm ăn, bến xe, cửa hàng bách hóa... khá phổ biến ở Miền Bắc vào thời bấy giờ. Thậm chí có cả những thanh niên, bị cán bộ xã ấp o ép, hành hạ trong suốt nhiều năm, đã chọn giải pháp "tình nguyện" đi bộ đội, để có dịp "đội nón cối, đi dép râu" trở lại quê nhà trả thù... Vì vậy, đối với nhà cầm quyền CS ở làng xóm thôn quê Miền Bắc, khi có một người bộ đội về thăm quê, chuẩn bị lên đường đi B, bao giờ họ cũng phải tìm cách chiều chuộng, cho mọi sự êm đẹp, trước khi "chúng đi cho khuất mắt".
Hiểu rõ tâm lý của mấy người cán bộ xã, và biết được thế thượng phong của mình, tôi trả lời ngắn gọn:
- Tôi không biết "đồng chí" yêu cầu giải thích điều gì?
Viên xã đội trưởng sẵng giọng, nói chõ vô:
- "Đồng chí" đảo ngũ, có giấy tờ của đơn vị gửi về rõ rành rành. Bây giờ "đồng chí" lại bảo đi công tác là thế nào?
Tôi nhìn thẳng vào mặt viên xã đội trưởng, nói:
- Tôi bảo tôi đi công tác là tôi có giấy tờ chứng minh đàng hoàng. Giấy đi công tác do sư đoàn cấp, có đóng dấu và chữ ký của sư đoàn trưởng. "Đồng chí" bảo tôi đảo ngũ, có phải "đồng chí" bảo giấy đi công tác của tôi là giấy giả?
Quay sang phía chủ tịch xã, tôi nói:
- "Đồng chí" chủ tịch đã xem giấy công tác của tôi, xin cho biết, đó là giấy giả hay thiệt?
Xã đội trưởng định nói gì, nhưng bí thư đảng uỷ xã trừng mắt nhìn, nên y hậm hực im lặng. Dưới gầm bàn, tôi thấy bàn chân của anh tôi dẫm nhẹ, ra hiệu. Tôi hiểu ý, anh muốn tôi ăn nói phải lễ phép. Tôi thực tâm cũng không muốn cứng rắn với họ làm gì. Nhưng tôi hiểu, nếu tôi không cứng rắn, tôi sẽ bị rơi vào thế kẹt, nguy hiểm. Trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi phải lấy công làm thủ.
Chủ tịch xã nhìn tờ giấy công tác, gật gù nói, giọng hiểu biết:
- Với kinh nghiệm và "lập trường" của tôi, tôi không thấy tờ giấy công tác này có dấu hiệu gì là giả. Họ tên, địa chỉ, thời gian công tác đều rõ ràng. Dưới có đầy đủ chữ ký và tên của sư đoàn trưởng. Lại có cả con dấu của sư đoàn nữa. Với trình độ tiên tiến của ta hiện nay, làm được tờ giấy công tác loại này thì tôi dám đảm bảo không có ai làm giả được. Chỉ có điều.... Chỉ có điều...
Khi nói câu "chỉ có điều..." hai lần, viên chủ tịch xã nhìn thẳng vô mắt tôi rồi bỏ lửng không nói. Bí thư đảng uỷ đỡ lời:
- Chỉ có điều... là tờ điện tín báo tin "đồng chí" đảo ngũ cũng không thể là giả.
Tôi hỏi:
- Các "đồng chí" có thể cho tôi xem tờ điện tín đó được không?
Chủ tịch xã quay nhìn bí thư đảng uỷ. Bí thư gật đầu. Chủ tịch xã lôi trong xà cột ra tờ giấy màu vàng gấp tư, đưa cho tôi. Mở tờ giấy ra coi, tôi thấy phía trên ghi tên người gửi vỏn vẹn có mấy chữ dính liền. Phía dưới là người nhận và địa chỉ. Nội dung bức điện tín chỉ có một câu chạy dài. Lâu ngày, tôi không còn nhớ chi tiết, nhưng đại khái báo tin cho ủy ban xã biết, Nguyễn Hữu Chí đã đảo ngũ ngày... tháng... năm... Yêu cầu các đồng chí hữu trách áp dụng những biện pháp cần thiết để đương sự trở lại đơn vị gấp.
Gấp tờ điện tín lại làm tư, trao lại cho chủ tịch xã, tôi nói:
- Thú thực với các "đồng chí" tôi rất ngạc nhiên không hiểu sao lại có bức điện tín này. Các "đồng chí" có thể cho tôi biết, người đánh bức điện tín là ai? Cấp bậc, chức vụ của người đó là gì được không?
Chủ tịch xã ú ớ nhìn bí thư đảng uỷ. Cả hai đều không thể ngờ, tôi hỏi câu đó. Thông thường, gửi một bức điện tín, người gửi bao giờ cũng tiết kiệm tiền bằng cách đánh thật ngắn gọn, nên ít khi ghi đầy đủ tên họ, địa chỉ của mình. Hơn nữa, vì là điện tín, nên trong một bức điện, không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ, tên họ, chức vụ của người đánh là thật. Nắm được những điểm quan trọng này, tôi mềm mỏng nói:
- Thưa các "đồng chí", tôi đi công tác có giấy tờ đàng hoàng do sư đoàn cấp. Nếu các "đồng chí" cần, tôi có thể cung cấp đầy đủ tên họ, cấp bậc, chức vụ, địa chỉ và số điện thoại của người chịu trách nhiệm, để các đồng chí ra bưu điện gọi điện thoại về đơn vị của tôi phối kiểm cho rõ ràng. Còn tờ điện tín này, tôi không biết ai gửi và vì sao gửi, nhưng tôi dám cam đoan, đó là tờ điện tín giả mạo, mà bất cứ ai ra bưu điện cũng làm được....
Bí thư đảng uỷ ngắt lời:
- Nhưng không phải bất cứ ai cũng biết rõ họ tên, địa chỉ của "đồng chí", mà họ gửi?
Tôi đồng ý:
- "Đồng chí" nhận xét rất đúng. "Bất cứ ai" ở đây phải là người biết rõ tôi. Người đó có thể ở trong cùng đơn vị của tôi, hoặc ở một đơn khác, nhưng biết rõ tôi...
Bí thư đảng uỷ nhăn mặt:
- Tại sao họ biết rõ "đồng chí" mà họ lại đánh điện tín nói "đồng chí" đào ngũ?
Tôi tỏ vẻ thận trọng:
- Cho đến bây giờ tôi cũng không biết tại sao họ lại làm như vậy. Nhưng tôi đoán, có thể người đó không ưa tôi, hoặc vì chuyện gì đó, họ có thù oán với tôi. Chuyện này như thế nào, sau khi trở lại đơn vị, tôi sẽ tìm hiểu thật kỹ lưỡng, rồi sẽ "báo cáo" đầy đủ với các "đồng chí". Nếu cần, tôi sẽ yêu cầu đơn vị viết thư cho các "đồng chí" tường trình đầu đuôi mọi chuyện.
Nghe tôi nói đến đó, bí thư đảng uỷ và chủ tịch xã đều gật gù ra vẻ thoả mãn. Riêng xã đội trưởng vẫn ngồi im, thái độ không thân thiện, nhưng vì vị thế thấp kém, nên y không tiện phát tác. Tôi giáng tiếp một đòn tâm lý:
- Thưa các "đồng chí", tôi đi công tác có giấy tờ đầy đủ, và các "đồng chí" đã xem xét giấy tờ đó kỹ lưỡng. Tôi biết, khi đi công tác đáng lẽ tôi không được phép ghé thăm nhà. Vì vậy, nếu các "đồng chí" không thể thông cảm cho phép tôi ở lại với gia đình trong vài ngày, thì ngay sáng mai, tôi sẽ lên đường trở lại đơn vị.
Bí thư đảng uỷ cười lớn, tay xua lấy xua để:
- Thông cảm, thông cảm, hoàn toàn thông cảm. "Đồng chí" cứ thoải mái ở lại đây cho đến khi nào hết phép thì trở lại đơn vị. "Đồng chí" cũng thông cảm cho chúng tôi vì phải thi hành nhiệm vụ nên đã làm phiền "đồng chí" và gia đình. Bây giờ mọi chuyện đã rõ ràng, chúng tôi rất an tâm, không còn phải lo ngại gì nữa. Còn về chính sách đãi ngộ bộ đội đi B khi về thăm nhà thì "đồng chí" chủ tịch xã sẽ làm việc với "đồng chí" thật đầy đủ và xứng đáng...
Chủ tịch xã vui vẻ tiếp lời:
- Theo chính sách của đảng và nhà nước, mỗi người bộ đội đi B về thăm nhà đều được xã cấp cho một cây thuốc lá, nửa ký lô đường, và tem phiếu để mua 2 kí lô gạo nếp, 2 kí lô gạo tẻ, 1 kí lô thịt lợn. "Đồng chí" cứ yên tâm, sáng mai đến văn phòng ủy ban xã, chúng tôi sẽ cho người trao cho "đồng chí" đầy đủ. Trong thời gian ở lại đây, nếu "đồng chí" cần chúng tôi giúp đỡ thêm gì, cứ mạnh dạn "đề xuất" với chúng tôi.
Nói xong, chủ tịch xã, bí thư xã, xã đội, đứng dậy vui vẻ bắt tay hai anh em chúng tôi, rồi cùng với hai người du kích bước ra khỏi nhà. Khi mấy cái bóng đen khuất sau hàng rào dâm bụt, rồi chìm hẳn trong bóng tối, anh tôi đưa tay quệt mồ hôi trán, rồi thở dài mệt nhọc, không nói một câu. Tôi lặng lẽ bước ra ngoài sân, hít một hơi thở thật sâu, nhìn lên bầu trời đầy sao, và bâng khuâng nhận ra cái thân phận mỏng manh, con sâu con kiến, của một kiếp người trong guồng máy khổng lồ, dán nhãn hiệu cộng sản...

KỲ  44

Trên chuyến tàu hỏa từ Hà Nội về thị xã Hà Nam vào tháng 5 năm 1975, tôi đã nhớ lại lần về quê thăm gia đình 5 năm trước đó. Lúc đó, trong hoàn cảnh chiến tranh và khoa học kỹ thuật còn vô cùng lạc hậu, nên việc liên lạc, phối kiểm tin tức giữa các tỉnh, huyện là điều rất khó khăn. Nhờ vậy, tuy uỷ ban xã nhận được giấy báo tôi đào ngũ, nhưng tôi vẫn dễ dàng qua mặt uỷ ban xã, để được an toàn ở lại quê nhà hơn một tuần lễ. Nhưng bây giờ trở lại quê nhà trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác, tôi sẽ phải đối diện với nhiều nguy hiểm hơn. Trong những năm tháng ở Miền Nam tự do, tôi đã dứt khoát chọn cho mình con đường, cùng với quân dân Miền Nam, tích cực đóng góp công sức nhỏ bé của mình trong công cuộc chống cộng sản, bảo vệ Miền Nam. Bất chấp mọi lời can ngăn, tôi quyết định công khai tên tuổi thật, địa chỉ thật, trong mọi việc làm chống cộng sản. Ngoài việc làm xướng ngôn viên cho những chương trình của Bộ Chiêu Hồi trên đài phát thanh và truyền hình, tôi còn trực tiếp lên tiếng trên đài VOA mỗi tuần vài lần (vì đã lâu, nên tôi không còn nhớ chính xác số lần), kể lại những tội ác của cộng sản, và kêu gọi đích danh tất cả những người thân yêu, bằng hữu của tôi hãy sớm nhìn rõ bộ mặt thật của cộng sản. Vì vậy, tôi biết, trong chuyến trở về quê hương lần này, tôi có thể gặp nguy hiểm nếu bị phát hiện. Biết vậy, nhưng vì tình yêu thương sâu xa dành cho thân phụ, cùng những ân hận về những lầm lỡ của thuở ấu thơ, đã khiến tôi bất chấp mọi nguy hiểm, nhất định về thăm mộ Thầy tôi trước khi tôi tìm đường vượt biên.
Tôi xuống ga Phủ Lý vào lúc 11 giờ đêm. Nhà ga Phủ Lý lúc đó vẫn tiêu điều, đổ nát, hậu quả từ những cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ và chính sách "sơ tán", "tiêu thổ kháng chiến" của cộng sản Hà Nội. Nhưng bao trùm lên quang cảnh đổ nát, tiêu điều của thị xã, vẫn là những tấm bích chương cực lớn, những khẩu hiệu thật to, ca ngợi cái gọi là "chiến thắng giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước" của những người cộng sản. Bên cạnh đó là những tấm hình Hồ Chí Minh khổng lồ, với những khẩu hiệu ca ngợi HCM, và kêu gọi mọi người tham dự lễ kỷ niệm ngày sinh 19-5 của HCM. Nhìn những khẩu hiệu, bích chương và những tấm hình của HCM, tôi không hiểu tại sao, dân tộc Việt Nam với 4000 năm văn hiến, đã bước vào thế kỷ 20 với không biết bao nhiêu nhân tài, truyền thống cao đẹp, vậy mà dân tộc đó vẫn bị cộng sản kìm kẹp, nô lệ, đầu độc... để tôn thờ HCM, một tên tội phạm hai tay nhúng đầy máu của những người dân vôi tội. Mỗi dân tộc đều có những thần tượng. Nhìn vào những thần tượng được tôn thờ, nhân loại sẽ đánh giá được quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc đó. Hitler chỉ được dân tộc Đức ảo tưởng coi là "anh hùng" có khoảng hơn 5 năm, rồi sau đó Hitler trở lại nguyên hình của một tội phạm chiến tranh. Trong khi đó tại Miền Bắc, tội phạm HCM được cộng sản thêu dệt trở thành "cha già dân tộc" suốt mấy chục năm, nhưng chỉ có một vài người dám nói lên sự thực, và tất cả những người dám nói sự thật đó đều phải sống trong lao tù. Đau lòng hơn, cả một tầng lớp trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà báo Miền Bắc, tuy nhìn rõ sự thực, nhưng chỉ vì tem phiếu của mấy chục kí lô gạo, mấy chục lạng thịt, lạng đường, họ đã thản nhiên chà đạp tinh thần "sĩ phu Bắc Hà", viết văn thuê, làm thơ mướn, ra rả ca ngợi đồ tể Hồ Chí Minh lên tận mây xanh. Thơ văn của họ đã đầu độc suốt mấy thế hệ thanh thiếu niên Miền Bắc trong suốt những thập niên dài. Và tôi nghĩ, khi nào cộng sản còn tồn tại trên quê hương Việt Nam, khi nào tội phạm HCM còn là "thần tượng" xuất hiện trong các công viên, trên các đường phố Việt Nam, khi đó, tổ quốc dân tộc Việt Nam còn bị chìm đắm trong nô lệ, khổ đau.
Đặt chân xuống ga Phủ Lý lúc trời đã khuya nên không còn xe khách. Tại thị xã Phủ Lý, tôi có một vài người bạn rất thân, cùng chí hướng ở tuổi hoa niên, nhưng tôi không muốn nhờ vả một ai vì sợ họ bị liên luỵ. Từ ga Phủ Lý về đến quê tôi chỉ khoảng 15 cây số. Tôi dự tính đi bộ không đầy 3 tiếng, tôi sẽ về đến quê vào khoảng 1, 2 giờ sáng. Thăm mộ Thầy xong, tôi sẽ trở lại Phủ Lý vào rạng sáng hôm sau, để đáp tàu trở lại Hà Nội.
Đêm hôm đó, sau ba giờ đồng hồ đi bộ, tôi đặt chân lên quê hương nhưng không dám về nhà. Tôi biết, trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, nếu về nhà, tôi sẽ làm kinh động gia đình và làm liên luỵ đến nhiều người. Thậm chí, trong một xã hội mà chế độ cộng sản đã thiết lập được cả một mạng lưới "mỗi người dân là một người công an", nếu về thăm nhà, tôi sẽ dễ dàng bị hàng xóm phát hiện, và không sớm thì muộn tôi sẽ bị bắt giữ. Khi đó, không những bản thân tôi gặp nguy hiểm, mà còn nhiều người thân trong gia đình gặp khốn khó.
Quê tôi có hai nghĩa địa lớn và khi ở Hà Nội, chị tôi đã nói cho tôi biết, mộ của Thầy tôi ở nghĩa địa nào. Tối hôm đó, tôi đã bí mật đến được tận nơi, nhưng tôi không thể nào tìm được mộ của Thầy. Tôi chỉ biết chung chung, mộ của Thầy có một tấm mộ chí sơ sài, bên cạnh vài hòn đá. Vì vậy, tìm ra mộ của Thầy giữa một nghĩa địa rộng mênh mông, mồ mả chập chùng trong đem tối là điều vô cùng khó khăn. Sau khoảng thời gian gần một tiếng đồng hồ vừa khóc, vừa tìm kiếm mộ của Thầy nhưng không thấy, tôi đành phải bỏ cuộc, vì tôi phải cố gắng trở lại ga Phủ Lý vào sáng sớm để đáp tàu trở lại Hà Nội. Tôi không thể nấn ná ở lại đợi bình minh, vì khi đó, nếu gặp người quen nhận ra, tôi có thể bị bắt ngay. Ở Miền Nam nếu bị bắt, tôi còn có cơ hội giống như con cá bơi trong nước, có thể nương tựa vào người dân Miền Nam để tẩu thoát, vì người dân Miền Nam chưa hề bị cộng sản nhuộm đỏ, lòng người vẫn còn cực kỳ đôn hậu, sẵn sàng cứu giúp những nạn nhân của cộng sản. Còn nếu tôi bị bắt ở trên Miền Bắc, tôi sẽ giống như con cá mắc cạn, vì người dân Miền Bắc trải qua mấy chục năm sống trong chế độ cộng sản, ngay cả vợ chồng, cha con, anh em, còn không tin được nhau, nói gì đến chuyện cứu giúp người dưng nước lã để rồi mang họa...
Quá mệt mỏi, cộng với nỗi xúc động, đau khổ vì thương nhớ Thầy, cùng nỗi kinh hoàng lo sợ trước viễn ảnh vô cùng đen tối của cuộc đời mình, tôi níu lấy một cành cây (hình như là cây nhãn thì phải), rồi vừa khóc, tôi vừa đọc kinh cầu nguyện cho Thầy. Tuy gia đình của tôi là đạo gốc mấy đời ở làng Đầm, nhưng vì lớn lên trong chế độ cộng sản vô thần, cấm đạo, việc dậy dỗ kinh bổn cho con cháu trong nhà vừa là điều cấm kỵ, vừa là chuyện nguy hiểm cho mọi người, kể cả tương lai của con cháu, nên tôi chỉ thuộc có kinh Lậy Cha và kinh Kính Mừng. Tôi cũng cầu xin Thầy tôi phù hộ cho tôi trong những ngày tháng sắp tới được tai qua nạn khỏi, đến được bến bờ bình an ở một nơi nào đó ngoài lãnh thổ Việt Nam...
Khoảng bốn giờ sáng, tôi âm thầm rời khỏi nghĩa địa, trở lại Phủ Lý trong tâm trạng của một người phải vĩnh biệt quê hương. Tôi biết rằng, ra đi lần này tôi sẽ mãi mãi không bao giờ được trở lại quê nhà. Kinh nghiệm sống với cộng sản trong mấy chục năm, cùng với thảm họa cộng sản tại nhiều quốc gia, và nhất là sau chiến thắng xâm lăng của cộng sản tại Miền Nam vào thời điểm đó, khiến tôi đau lòng tin rằng, bóng ma cộng sản sẽ đè nặng trên quê hương tôi không biết đến bao giờ...
Tôi lủi thủi đi dọc theo con đường có hàng trăm cây nhãn xum xuê dọc theo hai bên đường. Từ con đường này, nhìn về phía bên trái là dòng sông Châu quanh co uốn khúc, chảy hiền hòa qua bao nhiêu làng mạc, trong đó có núi Đọi, Đệp, quê ngoại của tôi, và mái trường tôi học khi còn bé. Bao nhiêu kỷ niệm của tôi thời ấu thơ gắn liền với dòng sông Châu như hình với bóng. Tôi nhớ lại những buổi Thầy tôi lấy dây thừng buộc ngang lưng tôi rồi quẳng tôi xuống sông để tôi tập bơi; những buổi trưa hè, tôi ngồi quạt cho Thầy tôi ngủ, rồi trốn ra sông bơi lội cùng lũ trẻ chăn trâu cho đến tận chiều tối mới rón rén mò về để ăn đòn; những hôm cùng bạn bè bơi qua sông hái nhãn, hái ổi của hợp tác xã, bị bắt; rồi những buổi tối bên sông, khi mùa hè đến, chúng tôi trong lứa tuổi 15, 16, tâm tình trong nhút nhát, vụng về để rồi nhớ mãi "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, nghìn năm chưa dễ mấy ai quên"... Trời rạng sáng hôm đó, mưa lất phất thật nhẹ, đủ để ướt một mái tóc, một bờ môi, một hàng mi... Đường quê hương là đường phù sa cát bồi tôi đã đi suốt bao nhiêu năm chân trần, nên bây giờ dù đi giầy, tôi vẫn cảm nhận được cái mịn màng mát lạnh của đất, khi nước mưa thấm nhanh vào lòng đất. Bước đi dưới mưa, trong niềm đau của người con phải vĩnh viễn lìa xa muôn vàn kỷ niệm cùng dòng sông của quê hương, tôi bâng khuâng nhớ đến bài thơ Nhớ con sông quê hương của nhà thơ Tế Hanh....
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông ấm áp
Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ...
Trong niềm đau khổ của một người vĩnh biệt quê hương, tôi đã không trở lại ga Phủ Lý qua những con đường cũ. Tôi đã chọn con đường dọc theo sông Châu, để được nhìn lại những phong cảnh cũ, được sống lại những kỷ niệm xưa. Gió sông lồng lộng thổi, sóng sông dào dạt khiến tôi nhớ lại ngót hai chục năm trước, khi tôi mới 7, 8 tuổi, hai bố con tôi đã phải lênh đênh trên một chiếc thuyền dọc, rời khỏi làng Đầm, nơi có không biết nhiêu oan nghiệt, khổ đau cho gia đình tôi, khi Thầy của tôi bị đội cải cách ruộng đất quy kết "tội địa chủ cường hào, ác bá"... Những oan nghiệt, khổ đau đó vẫn còn hằn sâu trong tâm hồn mỗi người trong gia đình tôi trong suốt bao nhiêu năm tháng, thậm chí cả nửa thế kỷ sau, kể từ những năm tháng oan nghiệt của cuộc cải cách ruộng đất, ngay tại Úc, gia đình tôi mỗi khi có dịp đoàn tụ, đều nhắc lại những kỷ niệm đau thương, đầm đìa máu và nước mắt của gia đình, trong đó có hình ảnh giữa trưa nắng, Thầy tôi phải quỳ, trên đầu phải đội một thúng đá, chung quanh là một vòng tròn vẽ bằng vôi, mỗi khi Thầy tôi mệt quá, bị gục xuống là bị đánh đập dã man... Tôi biết, tất cả những kinh nghiệm đau thương đầy máu và nước mắt mà gia đình tôi đã trải qua, chỉ là một trong muôn triệu phần khổ đau mà dân tộc Việt Nam phải gánh chịu trong suốt những năm tháng dài dưới chế độ cộng sản. Cùng với kinh nghiệm đau thương của gia đình, của quê hương làng xóm, của đất nước dân tộc... dưới sự đoạ đầy của chế độ cộng sản, khi đó tôi biết, kể từ nay (tháng 5 năm 1975) trở đi, người cộng sản sẽ tiếp tục tung hoành trên hình hài của đất nước, thảm họa cộng sản sẽ tiếp tục sinh sôi nảy nở từ bắc vô nam, tội ác của cộng sản sẽ tiếp tục lan tràn từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mâu... với mức độ ghê rợn và tàn nhẫn gấp bội phần ngày xưa. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, tôi vẫn không thể ngờ được, cùng với thảm cảnh chạy nạn cộng sản, phải vượt biên vượt biển tìm tự do; cùng với bi kịch của trẻ em và phụ nữ Việt Nam bị xuất cảng ra hải ngoại làm điếm, làm nô lệ tình dục; cùng với tội cắt đất cắt biển dâng cho cộng sản Tàu... cộng sản VN đã trở thành đảng Việt gian bán nước; và tội ác của chúng đã vượt khỏi biên cương quốc gia, khiến CSVN trở thành kẻ thù chung của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới...

KỲ  45

Khoảng cuối tháng 5 năm 1975, tôi từ biệt Mẹ lên đường trở lại Miền Nam, để tính chuyện vượt biển, vượt biên ra ngoại quốc. Đêm cuối cùng, cả hai Mẹ con tôi đã thức trắng trong đau thương và nước mắt. Tôi được nghe Mẹ tôi kể lại những kỷ niệm u buồn, xót xa của Mẹ trong quá khứ... Hai Mẹ con tôi đã ôm nhau mà khóc trên chiếc giường độc nhất, trong căn nhà chỉ có duy nhất một phòng vừa là phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách. Qua những đau khổ chắp nối, không theo thứ tự thời gian, không gian của Mẹ, tôi thấm thía nổi khổ đau của của những người phụ nữ Việt Nam.... Sinh ra và lớn lên trên một đất nước nông nghiệp lạc hậu, liên tục có chiến tranh, đất nước đó lại có hủ tục "trọng nam khinh nữ", "chồng chúa vợ tôi"... suốt mấy ngàn năm, nên người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu không biết bao nhiêu nỗi khổ đau chồng chất. Còn hạnh phúc nếu có đến với họ, cũng chỉ mong manh và hiếm muộn như những tia nắng yếu ớt hiện ra trong chốc lát của mùa đông băng giá...
Không biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam, thuở ấu thơ đã từng xót xa khóc cho thân phận những người phụ nữ trong truyện Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Chân Trời Cũ của Hồ Dzếnh, Bỉ Vỏ của Vũ Trọng Phụng, Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh,... để rồi khi lớn lên, nước mắt của họ lại tiếp tục lã chã rơi cho muôn ngàn nỗi khổ đau bi phẫn mà chồng con, và chính bản thân họ phải gánh chịu trên khắp mọi nẻo đường của đất nước. Nhưng thê thảm hơn, cay nghiệt hơn, vào giữa thế kỷ 20, cùng với sự xuất hiện của bóng ma cộng sản trên quê hương Việt Nam, số phận của người Việt Nam nói chung, người phụ nữ nói riêng, đã rơi xuống xuống mức tận cùng của khổ đau, đói khát và chết chóc. Chính mắt tôi đã chứng kiến những người vợ, những người mẹ ở quê tôi phải chịu trăm đắng nghìn cay với muôn vàn khổ đau do chế độ cộng sản gây nên. Đó là những người cô gái tuổi con rất trẻ nhưng vĩnh viễn không được đến trường học chỉ vì lý lịch gia đình; những bà mẹ có chồng con phải đi bộ đội, ở nhà quần quật một nắng hai sương, bán lưng cho trời bán mặt cho đất quanh năm suốt tháng, vẫn không đủ ngô khoai, rau cỏ để nuôi sống gia đình. Trong những năm đi trọ học xa, chính mắt tôi đã chứng kiến cảnh những bà mẹ, lưng còng tóc bạc, quần áo rách rưới, nét mặt hằn nỗi khổ đau, khóc lóc thảm thiết ở giữa chợ chỉ vì mang ra chợ bán mấy cây mía, ngọn rau, củ khoai,... được trồng ngay trên mảnh đất bé xíu của nhà mình, nhưng vẫn bị cán bộ lương thực nhà nước tịch thu, đập phá...
Tôi biết, tất cả những nỗi khổ đau tôi đã chứng kiến, chỉ là muối bỏ biển so với muôn triệu nỗi khổ đau mà những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu trong chế độ cộng sản. Và tất cả những khổ đau đó vào thời điểm 1975 trở về trước, quả thực không thấm vào đâu so với những thảm cảnh người phụ nữ Việt Nam tiếp tục gánh chịu từ 1975 cho đến nay. Trong suốt mấy chục năm dài kể từ khi cộng sản chiếm được Miền Nam, đã bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam phải khóc khi đi thăm chồng, con trong các trại cải tạo? Bao nhiêu người vợ, người mẹ, phải khóc trong tử biệt sinh ly khi chồng con của họ bị cộng sản hành quyết, chôn sống, tống tù? Bao nhiêu phụ nữ Việt Nam phải chết trên đại dương, trong rừng sâu, trên đường vượt biển, vượt biên, tìm tự do? Bao nhiêu người mẹ đã phải khóc khi con gái của họ mới trên dưới mười tuổi đã bị xuất cảng sang nước ngoài làm điếm? Bao nhiêu cô gái Việt đã phải khóc khi mang thân làm vợ những ngoại nhân ở miền đất lạ cách quê nhà cả vạn cây số, trong khi ngôn ngữ thì bất đồng, phong tục lại không biết?... Chính những đau thương này khiến tôi nhận ra, nếu đất nước Việt Nam đau thương của tôi trong thời Pháp thuộc đã có những bi kịch như  chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố;  vợ Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân,... thì ở cuối thể kỷ 20, dưới sự cai trị của những người cộng sản, những bi kịch của người phụ nữ Việt còn hiện ra muôn phần thê thảm trên khắp địa cầu. Những khổ đau đó thật muôn hình vạn trạng, không bút mực nào kể xiết, và dù cho cả thế giới này có tưởng tượng, cũng không thể nào tưởng tượng hết những khổ đau mà người con gái Việt phải gánh chịu khi phải lấy những người chồng què cụt nơi đất khách, hay phải làm điếm tại gia cho cả ba thế hệ của một gia đình "tam đại đồng đường"...
Khi trở lại Miền Nam, tôi không thể ngờ được, chuyến đi ra Bắc chớp nhoáng của tôi đã khiến chính gia đình bà chị nghi ngờ tôi là VC nằm vùng, hay nói đúng hơn, gia đình bà chị đã nghi tôi là hồi chánh giả. Dĩ nhiên, lúc đó, trong không khí của một thành phố bị cộng sản chiếm đóng, mọi chuyện nghi ngờ đều được gia đình bà chị giữ kín, không hề nói cho tôi biết. Cho đến gần một năm sau, khi tôi bị cộng sản bắt giam tại Trung tâm thẩm vấn hỗn hợp Việt Mỹ ở Tô Hiến Thành, chị tôi vô thăm tôi trong tù, mới vừa khóc vừa ân hận nói về những nỗi nghi ngờ của chị đối với tôi trong quá khứ. Nghe chị nói, tôi không buồn giận gì. Trái lại, tôi thầm cảm ơn chị, vì qua đó tôi thấm thía được một điều, trong cuộc sống, khi những người chung quanh thực sự có những nghi ngờ hay hiểu lầm về tôi, phần lớn là do chính tôi gây ra. Làm sao chị tôi không nghi ngờ tôi cho được, khi cộng sản mới chiếm Sàigòn không đầy một tuần lễ, tôi đã có đầy đủ giấy tờ để trở về Miền Bắc, rồi khoảng hơn một tháng sau, tôi lại ung dung trở lại Miền Nam, mà không hề gặp phải bất cứ sự khó khăn nào? Thì ra trong cuộc sống, nhiều lúc tôi chỉ biết hành xử theo tình cảm, sở thích của mình, mà quên mất rằng, qua những việc làm đó, những người thân chung quanh mình có thể đánh giá sai về mình.
Trước 30-4-1975, tôi được ở trong một căn phòng nhỏ thuộc Bộ Dân Vận Chiêu Hồi ở 272 Hiền Vương. Sau khi cộng sản chiếm Miền Nam, tôi bị cộng sản đuổi ra ngoài, nên phải trở về sống với gia đình bà chị. Trong cảnh đổi đời lúc đó, phần vì thiếu thốn trăm thứ, phần muốn che mắt thế gian, nên bà chị đã cho mướn tầng dưới làm quán nhậu. Và đây là đầu dây mối nhợ khiến tôi bị CS bắt, vào khoảng giữa năm 1976.
Giống như hầu hết người Miền Nam lúc đó, ngay sau khi trở lại Miền Nam vào tháng 6 năm 1975, tôi đã nôn nóng tìm đường vượt biên, nhưng không thành công. Trong hoàn cảnh lúc đó, tôi không tiền bạc, lại chẳng quen biết ai, những người thân của tôi đều gặp cảnh khốn khó, nên tôi thấy không thể có tiền, vàng, để đi theo đường biển, mà chỉ có con đường vượt biên bằng đường bộ qua ngả Đông Hà, Quảng Trị, là nơi trước đây tôi ít nhiều quen thuộc. Quyết định như vậy, nhưng khi nguy hiểm chưa đến chân, tôi vẫn sống lay lắt chờ thời, chứ không dám lên đường vượt biên để phải đối diện với những nguy hiểm chết chóc.
Suốt thời gian gần một năm trời, tôi cố gắng né tránh mọi giao tiếp với công an, bộ đội trong khu vực, mỗi khi họ ghé vô quán ăn nhậu. Vào một buổi chiều nọ, đi đâu về không nhớ, tôi phải đi qua tầng dưới là quán nhậu trước khi leo cầu thang lên phòng của tôi. Bước vào quán, tôi thấy ngay trong quán lúc đó, người ăn nhậu không nhiều. Ở bàn trong cùng có ba người tuổi trung niên đang ngồi nhậu, nhưng rất lặng lẽ. Góc ngoài cùng có khoảng 5, 6 người vừa mặc đồ bộ đội, vừa mặc độ thường, đang ăn nhậu ầm ĩ, cãi lộn huyên náo. Trong chiếc bàn nhỏ ở phía trong quầy tính tiền, ông anh rể của tôi đang ngồi nhâm nhi với ông chủ quán. Chủ quán là một người đàn ông trạc tuổi trung niên, giàu nghệ sĩ tính, có gương mặt phúc hậu vui vẻ, thích giao du bằng hữu, nên rất hợp tính ông anh rể của tôi.
Trông thấy tôi, ông chủ quán liền kéo tôi ngồi xuống làm một ly. Uống xong ly rượu, chưa kịp cầm đũa, tôi bỗng nghe thấy trong bàn nhậu của mấy người bộ đội có người lớn tiếng chửi rủa thi sĩ Nguyễn Bính là "nhà thơ phản động" thời Văn Nhân Giai Phẩm.
Với tôi, nhà thơ Nguyễn Bính là một thần tượng trong số những thần tượng của tôi thời tiền chiến. Thời gian ở Miền Bắc, suốt hai mươi năm sống trong sự kìm kẹp của cộng sản, nhưng tôi cũng đã đọc lén nhiều sách cấm trong đó có những tập thơ của Nguyễn Bính. Tôi cũng còn được đọc những bài thơ của Nguyễn Bính được những người ái mộ chép tay, bí mật chuyền cho nhau coi. Trong những năm đầu thập niên 1960, tôi và một số bạn học đã chầu chực ở phòng văn hóa xã Nhân Hoàng, huyện Lý Nhân, để được thấy mặt Nguyễn Bính, vì nghe phong phanh ông có về đó họp, nhưng không gặp. Sau này, vô Miền Nam, tôi mới được đọc và học thuộc lòng thật nhiều thơ văn của ông, trong đó có bài trường thi Hoa Và Rượu. Tôi cũng biết, trong chương trình học của học sinh cấp 1, 2 và 3 tại Miền Bắc có những bài thơ rất "đỏ" đi theo đúng đường lối của đảng cộng sản, được Nguyễn Bính sáng tác từ năm 1954, sau khi ông "tập kết" ra Miền Bắc. Nhưng điều đó không hề làm suy giảm lòng ái mộ của tôi dành cho ông.
Vì vậy, khi nghe những người bộ đội phỉ báng ông, tôi đã giận mất khôn, bước sang bàn của họ, tranh luận, bảo vệ ông bằng tất cả vốn liếng hiểu biết và tấm lòng ái mộ của tôi dành cho ông. Tôi không thể ngờ được, những người bộ đội trong bàn nhậu bữa đó là thành phần an ninh thuộc lực lượng quân quản được điều động về phường Phú Nhuận. Trong khi tôi ba hoa phô trương tất cả sự hiểu biết của tôi về thi sĩ Nguyễn Bính, về đời sống đói khổ của Miền Bắc mà chính tôi mắt thấy tai nghe, cùng đời sống tự do của Miền Nam, ưu đãi văn nghệ sĩ, trong đó có cả những văn nghệ sĩ đi theo cộng sản Miền Bắc,... tôi đã gieo rắc những nghi ngờ trong đầu óc của những người bộ đội đó.
Ngay sau khi bàn nhậu tan, cả ông anh rể lẫn ông chủ quán đều lo lắng cho tôi. Khi vô trong nhà, anh tôi mắng tôi ngu dốt, không thức thời, hơi đâu mà tranh hơi tranh tiếng với tụi nó. Tôi lúc đó cũng lo lắng, nhận ra sự dại dột của mình. Nhưng tất cả đã muộn.
Ngay tối hôm sau, khoảng 12 giờ đêm, tôi vừa từ nhà người bạn ở cư xá Chu Mạnh Trinh về đến nhà, đã thấy đằng trước nhà một toán bộ đội súng ống đầy đủ. Tôi biết ngay, hậu quả của sự ba hoa dại dột của tôi đã hiện ra trước mắt. Thấy tôi, một người bộ đội bước lại chặn hỏi:
- Anh có phải là Nguyễn Hữu Chí?
Tôi đáp:
- Dạ, phải.
- Mời anh sang ủy ban phường có chút chuyện.
Lúc đó, những người bộ đội đã đứng vây chung quanh tôi. Tất cả đều thản nhiên, sẵn sàng đối phó nếu tôi có hành động phản kháng. Tôi tuyệt vọng tìm cách câu giờ:
- Bây giờ quá khuya, các anh có thể để đến sáng mai tôi sang được không?
- Chúng tôi có lệnh mời anh sang ngay bây giờ.
- Như vậy, các anh cho tôi vô nhà đi tiểu chút được không?
Người bộ đội khôn ngoan trấn an tôi:
- Anh yên tâm, đi sang đó một chút rồi về ngay...
Không còn cách nào khác, tôi lặng lẽ đi theo họ. Hai người bộ đội đi trước. Tôi đi theo sau. Những người bộ đội còn lại đi sau cùng. Con đường từ nhà bà chị đến uỷ ban phường Phú Nhuận chỉ có khoảng 5 phút đi bộ, nên tôi còn đang bối rối kinh hoàng, chưa kịp nghĩ kế thoát thân, thì đã thấy mình bước vô phòng làm việc của uỷ ban phường. Ngay khi bước vô, tôi đã thấy không khí vô cùng căng thẳng, vì ở đó, đã có mấy người bộ đội, súng ống đầy đủ đang đứng chờ sẵn.
Uỷ ban phường lúc đó, đèn điện sáng trưng. Trong căn phòng rộng thênh thang có kê một chiếc bàn dài ngay chính giữa. Trên mặt bàn là một đống còng số 8, mấy cuộn dây dù. Đằng sau bàn là mấy chiếc ghế trống. Ngồi ở mấy chiếc ghế giữa là hai người mặc đồ thường phục và một người mặc đồ bộ đội. Phía bên trái và bên phải có mấy chiếc ghế trống, để người tới làm việc ngồi chờ. Phía bên trong có một phòng nhỏ, có cửa sổ bằng kính, nên tôi thấy có hai người đang cặm cụi làm việc.
Tôi theo hai người bộ đội bước vào phòng làm việc của uỷ ban phường. Bốn, năm người bộ đội đi theo sau, đứng ở ngoài. Tất cả những người bộ đội ở trong phòng đều đứng sang hai bên. Trước mặt bàn làm việc có hai chiếc ghế, nhưng không một ai mời tôi ngồi. Không khí căng thẳng trong phòng, và thái độ không thân thiện của họ, khiến tôi hiểu số phận của tôi tối nay lành ít dữ nhiều.
Khi tôi bước vô phòng, hai người ngồi bên thản nhiên cắm cúi làm việc. Người ngồi ở giữa, mặc thường phục, ngẩng lên nhìn tôi, rồi đứng dậy, cầm một tờ giấy trên bàn, hỏi, giọng lạnh lùng:
- Anh là Nguyễn Hữu Chí?
Tôi đáp:
- Vâng.
- Từ xưa đến nay, anh có nhận tiền của CIA để tham gia hoạt động tuyên truyền đánh phá cách mạng phải không?
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa xưa nay tôi chưa bao giờ nhận tiền của CIA.
- Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng là anh có nhận tiền để làm việc cho những đài phát thanh "phản động" là đài VOA và đài Gươm Thiêng.
Tôi điếng người. Thì ra trong thời gian nhận lời Trung uý Hiệu, cộng tác với đài VOA, mỗi lần nhận tiền thù lao, tôi có ký tên và ghi địa chỉ đầy đủ. Khi cộng sản chiếm được Sàigòn, chúng đã thu hồi được tất cả những hồ sơ lưu trữ ở Cư Xá Thành Tín, trong đó có đầy đủ tên tuổi và địa chỉ của tôi.
Thấy tôi im lặng, người cán bộ phường nói tiếp:
- Bây giờ yêu cầu anh đứng nghiêm chỉnh nghe tôi đọc lệnh tạm giam của Uỷ ban Quân quản.
Lệnh tạm giam ngắn gọn chỉ có mấy hàng. Vì lâu ngày tôi không còn nhớ rõ, nhưng đại khái có câu, "quyết định bắt giữ" tôi vô thời hạn, và lệnh cho ủy ban phường Phú Nhuận thực thi quyết định này.
Đọc xong lệnh bắt giữ, người cán bộ phường hỏi:
- Anh có hỏi gì không?
Tôi trả lời gọn lỏn, không giấy giếm sự mệt mỏi, chán nản:
- Không.
Người cán bộ phường nói tiếp:
- Yêu cầu ảnh bỏ lên mặt bàn tất cả những gì anh có trong người.
Tôi lặng lẽ lấy bóp, chùm chìa khóa, ít đồng bạc lẻ... để lên bàn. Sau đó, người cán bộ phường gật đầu ra hiệu cho hai người bộ đội bước đến khám xét người tôi một lần nữa. Khám xét xong, một tên lấy chiếc còng số 8 còng hai tay tôi lại, rồi lấy sợi dây dù trói chặt hai khuỷu tay tôi.
Cùng với nỗi đau của chiếc còng số 8 xiết chặt vào hai cổ tay, tôi tê dại cả người, và hối tiếc cho những ngày tháng sống vật vờ, lần lữa, không đủ can đảm để tìm đường vượt biên. Bây giờ thì mọi chuyện đã quá muộn màng. Tôi đã chui vô rọ, và không sớm thì muộn họ sẽ phanh phui ra hồ sơ hồi chánh của tôi. Khi đó, nếu tôi không bị tử hình, thì cũng sẽ mục xương trong lao tù cộng sản...

KỲ  46

Toán bộ đội áp giải tôi tối hôm đó chỉ có 4 tên. Hai tên đi phía trước, hai tên đi phía sau. Đường đi từ uỷ ban phường sang đến nhà làng Phú Nhuận không đầy cây số nếu đi thẳng đường Võ Duy Nguy, nhưng toán bộ đội đã chọn con đường hẻm, đi tắt ra đường Võ Tánh, gần tiệm Phở Huỳnh, quẹo trái xuống ngã tư Phú Nhuận rồi quẹo phải khoảng 500 thước là tới. Trên đường đi, nhìn những cảnh vật quen thuộc, ngày ngày tôi vẫn dửng dưng đi qua, nhưng sao khuya hôm đó, tôi thấy tất cả thân quen, tha thiết như có tình người. Góc dưới là đường Trương Tấn Bửu, ở đó có một dãy quán nhậu nổi tiếng, bên cạnh trường Chánh Tâm là trường của người Hoa. Dọc bên kia đường Võ Tánh là Phở Quyền. Xế lên một chút ngay cạnh con hẻm nhỏ không tên, trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày nào cũng như ngày đó, luôn luôn có một chiếc xe sinh tố, người bán là một thiếu nữ người Miền Nam, tóc để đuôi gà, tuổi 16, 17, trông thật dễ thương, mà tôi đã trồng cây si suốt bao nhiêu tháng năm trong âm thầm và hạnh phúc... Ngay sau ngày cộng sản chiếm được Sàigòn, cùng với không biết bao nhiêu mất mát và khổ đau của Miền Nam, quán sinh tố đó cũng biến mất cùng với cô chủ... Nhưng mỗi lần có dịp đi qua đó, tôi vẫn bâng khuâng với nhân dáng cũ, khung cảnh xưa, hiện về trong tâm trí...
Trên đường bị áp giải, tôi đã nhiều lần muốn liều mình chạy trốn, nhưng lại không dám, vì đường phố quá vắng vẻ. Ở Miền Bắc, chạy trốn khi đường phố vắng vẻ, sẽ dễ thoát, vì nếu đường phố đông đúc, người chạy trốn dễ bị dân chúng chặn bắt giao cho công an. Trái lại, ở Miền Nam, một người chạy trốn khi đường phố đông đúc bao giờ cũng dễ thoát, vì dân chúng thường khéo léo tìm cách giúp đỡ. Trái lại, nếu chạy trốn khi đường phố vắng vẻ thì nguy hiểm vì người chạy trốn dễ bị ăn đạn. Hơn nữa, lúc đó, tay tôi không những bị còng, tôi còn bị trói giật cánh khuỷu về phía sau bằng một sợi dây dù, một đầu dây nằm trong tay tên bộ đội đi phía sau. Dù cho tôi có giật được sợi dây dù khỏi tay tên bộ đội, rồi chạy, tôi cũng khó thoát, vì bị trói phía sau, khi chạy, rất dễ bị mất thăng bằng.
Khoảng 20 phút sau, tôi bước vô nhà làng Phú Nhuận. Tên bộ đội cởi trói lấy lại sợi dây dù, mở khoá chiếc còng số 8, rồi đẩy tôi vô một căn phòng chật hẹp, mỗi bề khoảng 5 thước, trong đó đã có khoảng hai chục người bị giam giữ. Dưới ánh đèn điện vàng vọt, tôi thấy mọi người nằm, ngồi ngổn ngang ngay trên sàn. Tất cả đều thản nhiên, im lặng, như say ngủ. Không một ai ngó ngàng hay hỏi han gì tôi. Tôi thở dài mệt mỏi, chán nản, rồi ngồi ngay xuống cạnh chiếc cửa sắt, hai tay ôm gối, lo lắng không biết tương lai của mình sẽ đen tối đến thế nào.
Một người đàn ông đang nằm trên sàn nhà, ngay trước mặt tôi, bỗng nhỏm dậy, với chiếc điếu thuốc lào tự chế bằng ống nhôm. Ngay khi ông ngồi dậy, một người khác, nằm cạnh ông cũng vội thức dậy, móc gói thuốc lào kính cẩn đưa cho ông. Ông cầm gói thuốc lào, vừa vê vê cho vào nõ điếu, vừa nhìn tôi với ánh mắt có cái gì đó, rất khó hiểu. Ông trạc tuổi ngoài 40, cởi trần để lộ những bắp thịt cuồn cuộn, hai vai vuông vức và bộ ngực to như cánh phản, rất cân đối với chiếc đầu to, cổ bự và ngắn, mái tóc đen rậm, cứng như rễ tre và bộ râu quai nón xồm xoàn.
Ngay khi ông đưa chiếc điếu lên miệng, người đàn ông ngồi cạnh đã bật quẹt, dí lửa vào nõ điếu, nhịp nhàng và quen thuộc, như đã làm hàng trăm lần... Ông rít một hơi thuốc lào thật dài, thật sâu, khiến nõ điếu đỏ rực như cục than hồng, chiếc điếu kêu lên những tiếng kêu ròn rã, khoái trá, rồi ông buông chiếc điếu sang bên, ém khói, ngửa mặt lên trần nhà phun khói thuốc cuồn cuộn, làm căn phòng dưới ánh đèn vàng vọt trở nên lung linh mờ ảo như trong sương khói. Từ bé đến lớn, suốt mấy chục năm trời, tôi đã từng thấy không biết bao nhiêu người hút thuốc lào, nhưng chưa thấy người nào hút thuốc một cách điệu nghệ và tài hoa như ông. Cái phong thái ngồi vững như núi, cùng vóc dáng vai hùm lưng gấu và hai cánh tay dài như tay vượn, cộng với gương mặt cương nghị, bộ râu quai nón xồm xoàm, cử chỉ hút thuốc thật đĩnh đạc, hơi thuốc hút vô thật sâu, thật dồi dào gần như vô tận,... của ông khiến tôi, tuy đang trăm ngàn mối lo lắng, cũng phải say sưa ngắm nghía ông với tất cả sự ngưỡng mộ. Nhìn ông, tôi chợt nhớ đến truyện "Chữ Người Tử Tù" mà nhà văn Nguyễn Tuân đã phác hoạ, hình ảnh người tử tù Huấn Cao, oai hùng và ngang tàng, phóng tay viết đại tự trên tấm lụa trắng tinh, dưới ánh đuốc bập bùng, còn viên quản ngục thì vừa say sưa ngắm nghía, vừa khúm núm xuýt xoa.... Thì ra, lao tù, nơi muôn phần gian nan nguy hiểm, lại là chỗ rèn tâm luyện chí và là cơ hội để cho con người thể hiện cái hùng tài, đởm lược của mình trước kẻ thù...
Sau một lúc im lặng, nhìn tôi qua khói thuốc, ông hỏi nhỏ, giọng thân mật:
- Tao tên Hoàng. Còn chú mày tên gì?
Tôi nhìn ông rụt rè, rồi gọn lỏn:
- Thưa, tôi tên Chí.
- Chí hay Trí?
- Chí, "Chí ch".
- À, "chí chấy". Chú mày làm gì mà bị bắt vậy?
- Tôi cũng không biết.
Người đàn ông gật gù:
- Ừ, đổi đời mà chú mày. Thời thế này, tụi nó bắt người đâu cần có lý do... Nhưng thà làm cái gì rồi bị tụi nó bắt vẫn khoái hơn là bị bắt oan!...
"Thà làm cái gì rồi bị tụi nó bắt vẫn khoái hơn là bị bắt oan!" Ông nói đúng quá. Ừ, giá mà mình làm một cái gì thật ngoạn mục rồi bị chúng bắt, thì vẫn có đã hơn không nhỉ? Tôi tự hỏi, nhưng tôi im lặng nhìn ông, không nói gì. Gương mặt quắc thước và ánh mắt của người đàn ông đầy vẻ cương nghị, lời nói của ông ngang tàng, chứng tỏ ông là người khắc tinh với cộng sản. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi lúc đó, tôi thấy im lặng là tốt nhất.
Thấy tôi im lặng, người đàn ông chỉ gật gù mà không nói gì thêm. Ông thở dài rồi nằm xuống ngủ. Trong khoảnh khắc ban đầu, tôi có cảm tình với ông, nhưng tôi không dám để lộ tình cảm của mình. Lúc đó tôi không thể ngờ được trong những ngày tháng sau đó, trong một hoàn cảnh đặc biệt, cuộc đời của ông đã ảnh hưởng tới cuộc đời tù tội của tôi.
Sau mấy tiếng đồng hồ ngủ chập chờn trong lo âu và buồn phiền, tôi giật mình thức giấc khi nghe tiếng xích sắt loảng xoảng. Một tên bộ đội mở khóa, gọi tôi ra ngoài làm việc. Bước vô phòng làm việc, tôi thấy chỉ có một tên bộ đội già, đeo lon đại uý. Sau khi bảo tôi ngồi xuống chiếc ghế trước mặt, y đẩy về phía tôi hai tờ giấy rồi nói, giọng lạnh băng:
- Tối qua anh bị bắt khẩn cấp nên không mang theo tư trang nội vụ gì. Bây giờ anh cần những thứ gì thì viết vào tờ giấy này, chúng tôi sẽ cho người đưa thư này đến tận nhà để gia đình anh lo liệu đưa cho anh. Nhớ là anh chỉ được ghi những tư trang nội vụ cần thiết, không được ghi đồ ăn, sách vở, dao kéo. Còn tờ giấy này, anh ghi rõ tên họ, địa chỉ và tóm tắt lý lịch của anh trước và sau 1975, anh làm gì, ở đâu, nhưng chủ yếu là trước 1975. Anh cầm hai tờ giấy này sang bàn bên kia ngồi viết. Viết xong đưa lại cho tôi. Nhớ là phải thành thật, thì mới được "cách mạng khoan hồng".
"Cách mạng khoan hồng", bốn chữ đó tôi đã nghe cả ngàn lần, và đã hiểu sự gian trá, xảo quyệt của nó. Tôi hiểu, tôi phải tìm mọi cách che giấu lý lịch hồi chánh của tôi cho đến khi nào không còn che giấu được. Trong thời gian còn che giấu được, tôi phải tìm mọi cách vượt ngục, trước khi mọi chuyện quá muộn màng.
Tối hôm đó, khoảng 12 giờ khuya, tôi bị còng tay, giải ra xe, cùng với 6 người khác, trong số đó có ông Hoàng và người đàn ông ngủ cạnh ông. Lúc đầu, trong danh sách chuyển tù, chỉ có ông Hoàng, không có người đàn ông kia. Nhưng không hiểu sao, sau khi ông Hoàng to tiếng cãi lộn gì đó với tên đại uý bộ đội mà tôi không nghe được rõ, thì người đàn ông ngủ cạnh ông, được đi theo ông.
Chúng tôi mỗi người đều bị còng tay bằng còng số 8. Sau đó, một sợi dây dù dài, buộc dính cả bảy người chúng tôi thành một chùm. Như vậy, tôi thấy vô phương có thể chạy trốn một mình.
Sau thời gian khoảng nửa tiếng xe chạy, chúng tôi đến trại tù sau này được biết là Trung tâm Thẩm vấn Hỗn hợp Việt Mỹ ở đường Tô Hiến Thành. Ngay khi xuống xe, cảnh vật đầu tiên đập vào mắt tôi là dưới ánh đèn pha sáng choang chiếu sáng rực cả trung tâm, hai chiếc cổng sắt lớn, hàng dẫy phòng giam xây cất dọc theo các cạnh hình chữ nhật, mỗi phòng đều có cửa sắt kiên cố, và số bộ đội canh gác đông đúc, súng ống lăm lăm...
Bảy người chúng tôi bị giải vô một căn phòng ngay bên phải cổng sắt. Ngay khi bước vào phòng, tôi đã bị ánh đèn pha cực mạnh chiếu thẳng vào mắt, nên không nhìn thấy gì trong bóng tối, phía sau ánh đèn. Chúng tôi phải xếp hàng ngang, tư trang nội vụ để trước mặt, và tất cả phải lột bỏ quần áo, kể cả quần lót. Mỗi người có một tên bộ đội bước đến kiểm soát tư trang, nội vụ. Tất cả những thứ được coi là nguy hiểm như sách báo, giấy tờ dù là giấy trắng, muỗng chén lon ly... bằng kim loại, đều bị vứt sang bên. Sau đó, chúng tôi phải há miệng kêu "a... a..." rồi phải chổng mông để cho các tên bộ đội kiểm soát xem có giấu giếm gì trong cổ họng, hay hậu môn không. Việc kiểm tra tư trang, thân thể quá tỉ mỉ, lại diễn ra trong đêm khuya, giữa bầu không khí im lìm đến rợn người, trong khi bên ngoài, thỉnh thoảng có tiếng quát, tiếng súng ống vang lên lách cách, tạo cho chúng tôi cảm giác của những con thú, bị xa bẫy, càng ngày càng bị những móng vuốt của bẫy xiết chặt, vô phương đào thoát. Cũng trong dịp này, tôi được nhìn thấy vóc dáng của ông Hoàng rõ ràng hơn. Ông cao hơn hẳn tất cả những người tù chúng tôi một cái đầu. Thân hình ông thật đẹp, trông cân đối và vững vàng như một bức tượng Hy Lạp.
Sau khi bị khám xét hành lý và thân thể, chúng tôi được giải vô các phòng giam riêng biệt. Riêng ông Hoàng không hiểu sao, vẫn được đi cùng với người đàn ông ngủ cạnh ông. Mãi sau này, tôi mới biết, cả hai người đều được giam riêng trong một phòng chỉ có hai người. Còn tôi, bị giam vô một phòng, trong đó đã có một người bị giam là ông già Thế. Tất cả các phòng giam tại Trung tâm Thẩm vấn đều giống nhau, mỗi phòng vuông vức mỗi chiều hơn hai thước, chỉ đủ chỗ cho hai người nằm. Phòng kín như bưng, cầu tiêu ở ngay trong phòng, và chỉ có một ô cửa sổ nhỏ hẹp bằng bàn tay ở phía sau, trên cao để thông hơi. Cánh cửa duy nhất bằng sắt, có khoá kiên cố, và một ô nhỏ, đủ để người bên ngoài nhìn vô theo dõi người tù bên trong. Bên ngoài ô nhỏ có một miếng sắt, người ở bên ngoài có thể đóng mở tuỳ ý.
Ông Thế là một chuyên viên ngân hàng, từng làm việc ở Ngân Hàng Thương Tín. Tuổi ông đã ngoài 60, nhưng trông ông già cỡ 70 tuổi. Ông cao, gầy, đầu hói không có một sợ tóc. Ông có kinh nghiệm rất nhiều về tội ác và thủ đoạn của người cộng sản, nên mặc dù không biết mình bị bắt vì tội gì, ông rất bi quan, tin chắc ông vĩnh viễn sẽ không còn ngày đoàn tụ với gia đình.
Trong những ngày tháng bị giam tại Trung tâm, ông thương tôi như con, và chỉ bảo tôi rất nhiều về nghệ thuật sống trong tù. Ông cũng chỉ dậy tôi về cờ tướng. Đúng như cái tên của ông, ông đánh "cờ thế" rất cao. Vì bị giam trong Trung tâm suốt thời gian dài, không có việc gì làm, nên ông và tôi chỉ biết đánh cờ tướng. Được ông chỉ bảo tận tình, tôi tiến bộ trông thấy. Lúc đầu, ông chấp tôi cặp xe, cặp pháo và con mã, sau ông chỉ chấp tôi có con xe, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn có ván thắng được ông. Ông nói, tôi đánh cờ không thể giỏi được, dù tôi có học đánh cờ cả đời, vì khi đánh, tâm tôi hay "phù động". Ông bảo trong đánh cờ, điều tối kỵ là "tâm phù động". Khi tâm đã phù động, thì trí óc mất minh mẫn, lú lấp tất cả những nước cờ hay mà khi bình thường, một người có thể nhìn ra rõ ràng.   

KỲ  47

Vì là trung tâm tạm giam, chờ sàng lọc, gửi đi các nơi, nên ở Trung tâm Tô Hiến Thành thời gian đó có đủ hạng người, trong đó có những người nổi tiếng mà trước đó tôi chỉ nghe danh như ông Mặc Đỗ và ông Phạm Thái Thuỷ cùng nhiều nhân vật khác mà lâu ngày tôi không còn nhớ. Nhân vật giang hồ lúc đó có Lâm "chín ngón", Hùng "mập", Minh "vồ"... Hôm ông Phạm Thái Thuỷ vô Trung tâm, tôi được nghe nhiều người kháo nhau, đó là nhà văn Hoàng Hải Thuỷ. Nghe vậy, tôi mừng quá, vì không thể ngờ được có ngày mình lại có cơ hội được nhìn thấy tận mắt một thần tượng văn chương như ông. Vô được Miền Nam, điều tôi thích nhất là được đọc sách thả cửa. Trong số những tác giả tôi ái mộ có nhà văn Hoàng Hải Thuỷ. Nhưng sau tôi mới biết, ông Thuỷ đó là Phạm Thái Thuỷ làm ở đài Phát Thanh Sàigòn. Còn ông Mặc Đỗ thì là bố vợ của ông. Gia đình của ông cũng sống ở Phú Nhuận. Được gặp các ông, tôi say mê nghe chuyện các ông nói, và học tập được rất nhiều điều.
Một ngày nọ, tôi được một anh tù tự do đến đưa "cơm" báo cho biết có một người tù mới tên là Lâm Vị Thuỷ sẽ đến trại. Nghe vậy, tôi giật mình, sung sướng, vì ông chính là giáo sư Việt văn tại Nguyễn Bá Tòng, Gia Định. Ông giảng bài rất hay, và ăn mặc cũng khác người. Quanh năm ngày tháng, lúc nào ông cũng mặc chiếc áo trắng dài tay, chiếc quần màu xám, và đến lớp cũng bằng xe xích lô. Khi lên lớp giảng bài, không bao giờ ông cầm bất cứ sách vở hay giấy tờ gì. Từ lúc bước vô lớp cho đến khi hết giờ, ông thao thao bất tuyệt, nói đủ thứ chuyện quá khứ, hiện tại, tương lai, trong sách vở, ngoài đời, và thứ gì ông cũng thật uyên bác, khiến chúng tôi bị hớp hồn. Thời gian tôi học tại đây còn có lần nhà văn Nhật Tiến, cũng đến giảng bài hay nói chuyện gì đó, lâu ngày tôi không nhớ.
Riêng ông Mặc Đỗ, tôi mê ông vì được đọc cuốn Thần Nhân & Thần Thoại Tây phương của ông. Tôi rất mê những huyền thoại của Hy Lạp và La Mã. Niềm đam mê đó sau này còn ảnh hưởng đến tôi khá nặng nề khi tôi làm báo, có những trang giới thiệu những huyền thoại của Hy La. Trong thời gian ở Trung tâm Tô Hiến Thành, tôi chỉ bị gọi lên làm việc có hai, ba lần. Tất cả đều đơn giản, không có gì rắc rối. Tôi đinh ninh cộng sản vẫn không hề biết lý lịch hồi chánh của tôi. Sự thật, tôi đã lầm!
Vào một đêm khuya, khoảng 2 giờ sáng, đột nhiên, chúng tôi nghe thấy có tiếng xe rì rầm tiến vô Trung tâm. Sống trong Trung tâm đủ lâu, tôi biết ngay đó là xe chuyển tù qua các trại khác. Để việc chuyển tù an toàn, thông thường, cộng sản khôn ngoan giả vờ "xì tin sắp thả tù" cho mấy người vệ binh, quản giáo biết. Những người này vì có ăn chia với "tù tự quản", một loại tù hình sự sắp hết án, hoặc án nhẹ được tự do đi lại trong trại tù, nên chỉ trong thời gian ngắn, họ tiết lộ những "tin sắp thả tù" cho "tù tự quản" biết. Tù tự quản liền xì tin đó cho cả trại tù. Kết quả, ai ai cũng mong đợi xe chuyển tù đến và hy vọng mình được gọi tên. Khi bị gọi tên, ai ai cũng ngoan ngoãn đưa tay cho họ còng, họ trói. Nhưng từ lâu, ông già Thế đã giải thích cho tôi biết, tin thả tù chỉ là tin vịt được cộng sản cố ý tung ra để đánh lừa tù. Chỉ nguyên cái chuyện cho xe chuyển tù vào nửa đêm, vệ binh, quản giáo đông nghẹt, súng ống đầy đủ cũng đủ hiểu, đó không phải là chuyện chuyển tù để tha, mà là chuyển tù đến những trại tù nguy hiểm hơn, kiên cố hơn.
Nghe tiếng xe đi vô Trung tâm, chúng tôi nghe đoán được có 2 chiếc. Xe tắt máy xong, chúng tôi nghe tiếng chân người chạy, tiếng hô, tiếng súng đạn lách cách, rồi tiếng những chiếc bẩm xe phía sau được tháo ra kêu ầm ĩ. Tôi phập phồng lo sợ, không biết mình có may mắn thoát khỏi chuyến chuyển tù lần này hay không. Ngay lúc đó, chiếc cửa sổ nhỏ của tôi bị kéo sang bên, rồi một giọng nói gay gắt, lạnh băng, chõ vô:
- Nguyễn Hữu Chí chuẩn bị "nội vụ".
Tôi giật mình vội vàng chồm dậy, ngó ra cửa sổ nhỏ bằng bàn tay. Bên ngoài, đèn pha chiếu sáng choang cả khu sân trại. Hai chiếc xe GMC kín mít như bưng, đậu im lìm trong sân. Trời lúc đó lất phất mưa, nên mấy chục người lính vệ binh, quản giáo đếu khoác áo mưa, súng AK-47 ghìm ở bên trong, dưới ánh đèn pha chiếu từ một phía, họ thành những mảng đen chạy dài, trông giống như  những tên ác quỷ.
Trong khi tôi mắt nhắm mắt mở vội vàng thu dọn "nội vụ", thì tiếng loa bên ngoài oang oang:
- Chú ý! Chú ý! Tất cả mọi tù nhân phải ngồi im lặng trong trại giam. Ai được gọi tên, phải lên tiếng thưa "Có" thật lớn. Sau đó nghe lệnh "Bước ra", thì phải mở cửa đi ra thật chậm rãi. Ra đến bên ngoài, phải đóng cửa phòng giam, rồi nằm úp mặt xuống, hai chân duỗi thẳng, hai tay để ngay sau lưng chờ lệnh. Bất cứ ai vi phạm sẽ bị xử trí ngay tại chỗ.
Tiếp đó là tiếng hô to: Các "đồng chí" vệ binh sẵn sàng!... Ngay lập tức, toán vệ binh mấy chục người cùng hô "Nhất chí!" rồi tất cả cùng đồng loạt lên đạn, nghe thật rợn người. Tuy nhiên, tất cả những chỉ dẫn này, chúng tôi đã nghe nhiều lần, đã chứng kiến nhiều lần chuyển tù, nên không một ai lộn xộn. Tất cả mọi người đều lặng lẽ làm khi nghe gọi tên mình. Mỗi khi gọi đến tên một người, số phòng giam, lập tức, một chiếc đèn pha rọi ngay về phòng giam đó. Trong chốc lát, chiếc cửa hé mở, người tù run rẩy bước ra dưới ánh đèn pha thật mạnh, khiến hai mắt người tù bị chóa, không nhìn thấy gì.
Tôi mở cửa bước ra, run rẩy nằm úp mặt xuống vỉa hè. Lập tức, hai tên vệ binh lực lưỡng nhào tới, còng hai tay tôi một cách nhậm lẹ. Tiếp theo, một sợi dây dù trói tôi giật cách khuỷu. Xong xuôi, hai tên vệ binh hai bên, mỗi tên một tay, cầm lấy cánh tay tôi, vừa nhất bổng, vừa kéo tôi xền xệt trên mặt hè, xuống sân đá răm, rồi tới chỗ tù đang ngồi xếp hàng. Những sợi dây dù sau lưng chúng tôi được buộc lại với nhau, 5 người một sợi. Một tên vệ binh cầm một đầu sợi dây dù lôi đi. Tất cả nội vụ của chúng tôi đều được choàng vào đầu, vào cổ, hoặc có người dùng răng cắn chặt... Bỗng dưng chúng tôi giật mình vì một tiếng súng nổ vang. Một tiếng kêu thét nghe thật rùng rợn trong đêm tối, tôi nghe nhưng không biết của ai. Đây là lần thứ hai, tù vượt ngục ngay khi chuyển trại và bị bắn chết. Tình thế như vậy, chúng tôi biết, không bao giờ có chuyện chuyển tù để tha... Tôi thở dài, và không biết mình khóc từ lúc nào...
Xe chạy không đầy nửa tiếng đồng hồ, thì chậm lại, rồi dừng hẳn. Tiếp theo là tiếng quát tháo phía đằng trước. Chúng tôi đoán là một trạm gác của một trại tù khác. Thời gian xe chạy có nửa tiếng đồng hô đã tới nơi làm chúng tôi thấy yên tâm và an ủi, vì như vậy, có nghĩa, tạm thời, chúng tôi chưa bị giải ra ngoài Bắc. Thời đó, bất cứ người "tù cải tạo" nào trong tay cộng sản, cũng đều nghĩ đến chuyện bị giải ra các trại tù ngoài Bắc là một cái án tựa như án chung thân, hay án tử hình.
Xe từ từ chuyển bánh, chạy qua một chiếc cổng vòm xây bằng gạch. Một người bạn tù ngồi cạnh tôi thì thầm: "Quân lao Gò Vấp!" Đây là lần đầu tiên tôi được nghe 4 chữ "Quân lao Gò Vấp", và tôi không thể ngờ được trong suốt thời gian hơn một năm sau đó, cuộc đời tôi tại Quân lao Gò Vất sẽ có không biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, khổ đau, ân tình có, thù hận có, nước mắt có, nụ cười có, và cả máu của tôi cũng đã phải đổ ra khi bị một toán vệ binh hơn chục người đánh hội đồng ngay trong nhà ăn tập thể của khu A-1.
Ngay khi chiếc xe GMC dừng bánh, chúng tôi nghe tiếng hô, tiếng chân người chạy rầm rập trong đêm, rồi tiếng súng lên đạn lách cách. Tiếp đó, tiếng loa vọng tới đầy sắt máu:
- Tất cả các "tội phạm cách mạng" chú ý, ai ngồi đâu ngồi yên đó, chờ lệnh! Cấm nhúc nhích. Ai trái lệnh sẽ bị "xử trí" tại chỗ!
Tất cả chúng tôi ngồi im trong lòng xe tối om, không ai nói với ai một câu. Không khí của Quân lao, những tiếng hô rợn người của cán bộ cộng sản, tiếng súng đạn lách cách, nhất là bốn chữ "tội phạm cách mạng" lần đầu tiên tôi được nghe, đã khiến tôi càng ngày càng tuyệt vọng. Nhưng càng tuyệt vọng bao nhiêu, tôi càng thấy quyết tâm phải vượt ngục bấy nhiêu. Tuy trước 1975, tôi chưa hề biết đến Quân lao Gò Vấp, nhưng gia đình ông cậu, em của mẹ tôi sống ngay trong vùng, nên tôi biết, từ Phú Nhuận, Gia Định đến Quân lao Gò Vấp không bao xa. Biết vậy, nên tôi vẫn le lói hy vọng, và nuôi quyết tâm, sẽ vượt ngục bằng bất cứ giá nào, và phải vượt ngục khi còn bị giam giữ ở Miền Nam.
Trong những ngày tháng sống ở Miền Nam Tự Do, tôi hiểu lòng người dân Miền Nam không có ai ưa gì cộng sản. Nhất là sau 30 tháng 4 năm 1975, tất cả những người cộng sản đã để lộ bộ mặt đầy thú tính, những âm mưu nham hiểm, những tội ác man rợ, rùng rợn, trời không dung, đất không tha, người người đều oán hận. Cùng với cái gọi là "chiến thắng" của cộng sản, một số người dân Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc đều bừng tỉnh, để rồi xót xa, ân hận, tiếc nuối cho những lầm lỡ, những dại dột nghe theo lời tuyên truyền của VC. Nhất là ở Miền Nam, sau 30 tháng 4 năm 1975, cả mấy chục triệu người dân bỗng thấy yêu thương vô cùng những người lính VNCH, và rộng lớn hơn, bao la hơn, họ yêu thương tất cả những người bị cộng sản bắt đi "cải tạo". Mọi người đều nhận ra bài học đau đớn của cuộc chiến tranh Việt Nam, mà ít nhiều họ đều có lỗi; trong khi những hy sinh, chịu đựng, những mất mát của người lính VNCH quả thật là vô biên, không bút mực nào tả xiết.... Hàng triệu tiếng nấc, tiếng khóc nghẹn ngào trong đêm tối, hàng trăm triệu giọt nước mắt âm thầm đã nhỏ xuống, cùng với hàng trăm vạn nỗi khổ đau đã diễn ra với muôn ngàn hoàn cảnh, ở khắp mọi miền của đất nước. Cùng với nỗi ân hận và đau thương của mỗi thân phận, mỗi gia đình, và chứng kiến thảm hoạ bao trùm cả dân tộc dưới sự kìm kẹp của cộng sản, người dân Miền Nam đã tìm mọi cách để giúp đỡ tất cả những người "tù cải tạo"... Từ những củ khoai, củ sắn, lạng đường, gói thuốc rê, trái xoài, qủa ớt... giấu vội trong các bụi câu, gần những nơi người "tù cải tạo" phải lao động, đến những ánh mắt đẫm lệ, những bàn tay run run trao gửi chút ấm áp của tình người cho những người "tù cải tạo",... đã khiến cho cả dân tộc bừng tỉnh, và hiểu được thật sâu xa, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chính nghĩa thuộc về ai, lẽ phải thuộc về ai, chân lý thuộc về ai.
Sự dốt nát, cộng với cả một guồng máy tuyên truyền, và hào quang cái gọi là "chiến thắng" trong chiến tranh VN, đã khiến những người cộng sản bị sa lầy, không nhận ra chân lý này suốt mấy chục năm trời. Họ quả thật là những tên tội phạm của lịch sử, những cũng là những kẻ đáng thương, chỉ vì ngu dốt mà bị chìm ngập trong tội lỗi.
Trong thời gian hơn chục năm trở lại đây, một số người cộng sản có dịp ra ngoại quốc, hoặc bị thất sủng, đã bừng tỉnh nhận ra cộng sản là tội đồ của dân tộc. Tuy nhiên, vì quyền lợi, vì hào quang giả tạo của quá khứ, trong đó có hào quang giả tạo của chính họ mà họ đã đổ mồi hôi và máu để giành giật, đã khiến họ không đủ can đảm đoạn tuyệt với ý thức hệ cộng sản.

KỲ  48

Quân lao Gò Vấp được chia là ba khu nhà xây chạy dài là khu A, B và C. Mỗi khu có 3 phòng giam riêng biệt cùng chung một mái nhà, nhưng ngăn cách bằng bức tường xây thiệt cao, trên trần có rào kẽm gai. Mỗi phòng giam đều có hai cánh cửa bằng sắt, dầy và nặng. Ở giữa cửa sắt có một ô nhỏ, mỗi chiều khoảng 15 phân, có cửa để mở, đóng bằng cách kéo sang phải hay trái. Khỉ mở, cửa đủ rộng để cho tù ngó hai con mắt ra ngoài, hoặc tù có thể dí mũi hít thở không khí tươi mát bên ngoài trong những ngày nóng bức. Trong mỗi phòng giam đều có cầu tiêu ở ngay phía sau. Ngoài sân, giữa các phòng giam cũng có hàng rào kẽm gai ngăn cách.
Toán của tôi 5 người được giải vô phòng giam A-2 thuộc khu A. Sau này tôi được biết, A-1 giam giữ tù hình sự thuộc loại quân phạm (bộ đội phạm tội cướp trộm, hủ hoá, tham nhũng...). A-2 giam giữ tù chính trị, mà phần lớn là hồi chánh viên. Riêng A-3, lúc đó cộng sản giam giữ mấy chị bên Phượng Hoàng. Chạy dọc theo Khu A, cách một cái sân có chiều ngang khoảng 10 thước là nhà ăn, rồi đến một dẫy bể nước thấp ngang hông, dành cho tù tắm, và cuối cùng là nhà bếp. Ngay dưới gốc cây bã đậu trong khu A-3 có một cái giếng đường kính khoảng 2 thước, thỉnh thoảng tù có thể quay lấy nước đem vô trong phòng giam, tắm rửa "tự túc". Chữ "tự túc" được tù dùng có nghĩa là tắm ngoài quay định của trại. Thời gian đó, tù chỉ được ban chỉ huy trại cho phép tắm mỗi tuần một lần ở khu bể nước, và mỗi lần chỉ được phép tắm có 10 phút.
Tất cả tù bị giam tại quân lao Gò Vấp khi đó đều nằm trong dạng giam cứu, sẽ có nhân viên ở phòng quân pháp xuống thẩm vấn, phân loại trước khi gửi đi trại giam Kà Tum. Cả trại giam Gò Vấp lẫn trại giam Kà Tùm đều trực thuộc lực lượng quân quản của quân đội cộng sản, nên gác tù thì có vệ binh, cai quản theo dõi tù thì có quản giáo, và thẩm vấn phân loại tù thì có nhân viên ở phòng quân pháp. Tại quân lao Gò Vấp, thỉnh thoảng tù cũng bị đi lao động, nhưng chủ yếu, khi bị đưa đi Kà Tum, tù mới phải lao động liên miên tuần lễ 6 ngày, mỗi ngày 12 tiếng, để sản xuất khoai mì, chuối, khai thác gỗ, đóng giường tủ, bàn ghế... để mang lại tiền bạc cho phòng quân pháp của cộng sản.
Thời gian đó, cả nước Việt Nam đang trải qua những ngày tháng kinh hoàng, thiếu thốn, đói khát, nhất là dân chúng ở Miền Bắc thì nạn đói càng ghê gớm hơn. Ngay cả vệ binh quản giáo canh gác tù cũng thiếu thốn. Nhiều người cho biết, giai đình của họ ở ngoài Bắc phải ăn cả củ chuối, thân chuối, thậm chí phải tranh ăn cả rơm, cỏ với trâu bò. Nhiều nơi dân bị chết đói la liệt. Chính quản giáo Trường nói cho chúng tôi biết, Trung Cộng ép buộc cộng sản Việt Nam phải trả lại những món nợ mà họ đã cho cộng sản Việt Nam vay mượn trong thời kỳ xâm lăng Miền Nam. Mà món duy nhất cộng sản Việt Nam có thể gom góp để trả cho Trung Cộng là gạo. Ngoài ra không có thứ nào khác Trung Cộng chịu nhận. Hậu quả của tình trạng trả nợ này đã khiến kinh tế Miền Bắc kiệt quệ và cả nước phải khốn cùng.
Trong hoàn cảnh đói khát chung của cả nước như vậy, những người tù chúng tôi trong quân lao Gò Vấp càng thấy đói khát thê thảm. Những người tù nào có gia đình thăm nuôi thì còn đỡ, còn những ai không có thân nhân, thì đành cắn răng chịu đựng mọi sự khốn khổ, và chỉ trong thời gian ngắn không đầy hai tháng trời, tôi đã thấy thân hình của tôi chỉ còn là bộ xương bọc da. Mỗi ngày, tù chỉ được ăn có hai bữa "cơm". Mỗi bữa, vỏn vẻn hai lưng chén bo bo độn, một tí rau luộc, một ít nước rau và chút nước muối. Nhưng nếu đói khát hành hạ thể xác người tù một phần, thì sự tuyệt vọng trong hoàn cảnh tù đầy hành hạ người tù gấp mười phần.

Anh chị Dzoãn Bình, Đàm Chi Lan và Dzoãn Phượng

Trong phòng giam A-2 lúc đó đều là hồi chánh viên mà phần đông là gốc Miền Nam. Tại đây tôi đã được gặp lại một số anh em hồi chánh tôi đã quen biết trước như anh Duy "đầu bạc" tài hoa có máu văn nghệ viết chữ rất đẹp, anh Nở người Việt từ bên Căm Bốt về, anh Ân người gốc Hoa tính tình điềm đạm, chân thật, chất phác. Vô tù cùng lúc với anh Nở là anh Dzoãn Bình, một ký giả nổi tiếng về những thiên phóng sự chiến trường thời trước 1975. Cả hai anh trước bị giam ở trại tù cải tạo Long Khánh, sau cùng bị chuyển về quân lao Gò Vấp, vì bị xếp loại hồi chánh viên. Sự thực, anh Dzoãn Bình vì lòng yêu nước nên năm 1945, đang sống ở Hà Nội, anh đã trốn gia đình đi theo vệ quốc đoàn, nhưng sau này bị cộng sản xếp vào thành phần "tạch tạch sè" (tiểu tư sản) và anh cũng sớm nhận ra sự tàn ác, bất nhân của VC nên anh đã  "dinh T", rồi vô Nam năm 1954. Không ngờ 30 năm sau, khi cộng sản bắt được anh, anh thẳng thắn khai hết từ đầu đến đuôi nên chúng xếp anh vào dạng hồi chánh, đưa về quân lao Gò Vấp.
Trước 1975, mỗi tuần tôi có đến đài phát thanh Sàigòn hai lần để thu chương trình phát thanh của Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, nên có quen cô Dzoãn Phượng, con gái của anh Dzoãn Bình. Cô được nhận vô làm xướng ngôn trong đài phát thanh sau khi bà Đàm Chi Lan, vợ của anh Dzoãn Bình qua đời. Thời đó, tôi thấy anh Dzoãn Bình rất phong độ, trẻ trung, tinh anh, thường mặc bộ đồ dân vận 4 túi, đeo kính cận, để hàng ria mép con kiến, đi chiếc xe vespa đến đón Dzoãn Phượng, nhưng không bao giờ được hân hạnh trò chuyện với anh. Đến khi gặp anh trong tù, anh già đi trông thấy, hàm răng giả của anh lại bị mất, người anh lại cao nên trông càng thêm gầy gò, ốm yếu. Thoạt thấy anh, tôi không tài nào nhận ra anh. Về sau nghe anh Nở nói chuyện, tôi mới biết anh là ký giả Dzoãn Bình, người tôi đã đem lòng quý trọng một cách âm thầm từ khi tôi được đọc những phóng sự chiến trường của anh, tại thư viện của Bộ Thông Tin ở đường Phan Đình Phùng. Gặp được anh trong tù, tôi mừng quá, nằm lắng nghe anh kể chuyện thâu đêm. Sáng ra, anh bảo tôi đưa cho anh cây viết và mảnh giấy, rồi anh viết nguệch ngoạc mấy câu thơ, đến nay tôi vẫn còn nhớ và vẫn còn thấy xao xuyến:
Gặp nhau mái tóc còn xanh,
Mà nụ cười cằn cỗi
Đường đời sao sớm mỏi
Chuyện mình vừa nói đã thương nhau.
Phải chăng mưa gió giãi dầu
Thời gian sẽ thấy lại màu áo xưa?
Trong suốt thời gian tôi bị giam giữ trong trại tù cộng sản khoảng hơn một năm trời, anh Dzoãn Bình quả thực là bóng mát, là nguồn nước giếng khơi, cho cuộc đời của tôi. Anh dậy dỗ tôi rất nhiều điều. Kiến thức của anh uyên bác, hiểu biết của anh về xã hội Miền Nam gần như vô tận, nên chỉ gần gũi anh một thời gian không đầy một năm, tôi đã được anh kể cho nghe không biết bao nhiêu chuyện về giới nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ Miền Nam. Từ những nhà văn, nhà báo lão thành được anh kính trọng đến những câu chuyện tưởng như huyền thoại về cuộc đời nghiện ngập và cái thú "yên sĩ phi lý thuần" của anh. Anh rất kính trọng văn tài và tư cách của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Anh cũng tỏ ra có biệt nhãn khi nhắc đến dòng họ Nguyễn Ngọc là ông Nguyễn Ngọc Trác, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Phách. Sau này, trôi nổi sang Úc, được gặp gỡ một số nhà văn, nhà báo lão thành của Miền Nam, các vị kể cho tôi nghe, thời kỳ làm ký giả cho Việt Tấn Xã, anh Dzoãn Bình viết bài đụng chạm đến vài nhân vật có lai lịch lớn, nhưng được ông Nguyễn Ngọc Linh, giám đốc Việt Tấn Xã, tận tình bênh vực và giúp đỡ, nên anh ấp ủ mãi mãi ân tình đó.
Một người bình thường khi bị cộng sản bắt đi tù cải tạo đã khốn khổ vô cùng. Nhưng anh Dzoãn Bình khi vô tù cải tạo còn khốn khổ hơn nhiều, vì anh nghiện thuốc phiện, hay nói theo ngôn ngữ của anh là "hít tô phe". Cũng vì nghiện, nên một ngày nọ, anh đem đổi gói thuốc lào để lấy mấy hạt mã tiền khô, đem về nghiền ra rồi pha nước uống. Tôi không biết uống hạt mã tiền vô trong người thế nào, nhưng những người tù cải tạo ở trại Kàtum mỗi khi về quân lao Gò Vấp, người nào cũng có một túi vải nho nhỏ, trong có vài hạt mã tiền. Tù nhân vẫn đồn đại là dùng hạt mã tiền có thể cường dương bổ thận, trị phong thấp, nhức mỏi, tê bại. Tôi không biết chuyện này thực hư thế nào, nhưng đã có lần nếm thử một tí thì thấy đắng vô cùng. Tối hôm đó, anh Dzoãn Bình uống hạt mã tiền vô được khoảng nửa tiếng, thì cả người anh co giật thật khủng khiếp. Cả mấy người chúng tôi xúm vô giữ anh mà giữ không nổi. Kinh hoảng quá, chúng tôi phải đập cửa sắt phòng giam rầm rầm, rồi la hét ầm ĩ, quản giáo mới chịu mở cửa để cho anh ra ngoài cấp cứu. May mắn, lần đó anh thoát nạn.
Vì quen biết Dzoãn Phượng từ hồi trước 1975, nên anh Dzoãn Bình rất tin tưởng và thương yêu tôi. Vì tin tưởng tôi nên anh đã bàn với tôi cách vượt ngục với sự trợ giúp của Dzoãn Phượng. Thời đó, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn phải ra khu gia cư, ngay phía bên ngoài quân lao Gò Vấp để lao động. Công việc thì không nhiều, không nặng nhọc, nhưng tuần nào cũng có toán phải ra ngoài đó lao động, dọn dẹp nhà cửa, làm đường xá.... Mỗi lần như vậy, tù cải tạo chúng tôi thường tìm cách cho tiền tụi vệ binh, quản giáo để chúng mật báo cho thân nhân của mình ở quan vùng đến thăm viếng. Người nào có thân nhân đến thăm, sẽ được quản giáo vệ binh cho vô một căn phòng bỏ hoang hàn huyên tâm sự, rồi nấu nướng đồ ăn thức uống chia sẻ cho nhau. Vệ binh quản giáo cũng rất bằng lòng với lối thăm viếng bí mật kiểu này, vì chúng vừa được ăn uống phủ phê, lại vừa có tiền, có thuốc lá, thuốc lào đút túi, và anh em tù cải tạo cũng vui vẻ vì được người thân của bạn tù, mỗi khi viếng thăm, đều có món "bồi dưỡng" cho tù không món này thì cũng món khác.
Thường mỗi lần thân nhân viếng thăm bí mật như vậy kéo dài nhiều tiếng đồng hồ, kể từ lúc nghỉ trưa ăn "cơm". Thân nhân đến cứ lặng lẽ đi vô nhà bỏ hoang, xếp đặt các thứ cần nấu nướng rồi lặng lẽ làm các món ăn. Những thứ nào cho bạn tù thưởng thức được xếp riêng một bên, chờ tù nhân vô mang đi phân phát. Thứ nào cho quản giáo, vệ binh thì cũng để riêng. Những món này thường phải nhỏ bé, kín đáo và giá trị cụ thể hơn. Thường, vệ binh quản giáo chỉ nhận tiền mặt, bột ngọt, hoặc thuốc lá. Đến giờ nghỉ trưa ăn "cơm", người tù nào có thân nhân đến thăm sẽ lặng lẽ và thản nhiên đi vô trong nhà hoang, xum họp một, hai tiếng, hoặc có khi cả buổi chiều với gia đình. Tất cả đều đâu vào đấy, tuần tự như tiến, ai cũng có phần mà mọi chuyện trôi chảy, không ai làm phiền đến ai.
Trong thời gian tôi và anh Dzoãn Bình ra ngoài làm việc, Dzoãn Phượng cũng đã đến viếng thăm bí mật như vậy nhiều lần. Có lần Dzoãn Phượng đi một mình, có lần đi với bạn. Vì những cuộc thăm viếng như vậy diễn ra thường xuyên, hầu như ngày nào chúng tôi ra ngoài lao động cũng có vài người tù cải tạo có người thân thăm viếng, và xưa nay chưa bao giờ xảy ra chuyện gì đáng tiếc, nên quản giáo vệ binh canh gác rất lơ là. Thậm chí có nhiều lần, nấu nướng đồ ăn thức uống, thiếu món này món nọ, người thân lại phóng xe Honda ra ngoài chợ Gò Vấp mua thêm đồ về nâu là chuyện vẫn xảy ra. Vì vậy, tôi và anh Dzoãn Bình bàn tính chuyện vượt ngục bằng chính chiếc xe Honda Dzoãn Phượng mang vô.
Trong khu gia cư của quân lao Gò Vấp lúc đó cũng có nhiều gia đình sống tạm bợ, nên chuyện người và xe cộ ra vô là điều bình thường. Tôi tính với anh Dzoãn Bình, để Dzoãn Phượng đi xe Honda vô thăm, nấu nướng đồ ăn thật nhanh chóng, rồi Dzoãn Phượng lẻn ra ngoài. Sau đó, đến giờ nghỉ, anh Dzoãn Bình sẽ bước vô, lấy quà trao cho vệ binh, quản giáo. Còn tôi cũng tìm cách lẻn vô lấy đồ ăn trao cho bạn tù, rồi tôi và anh Dzoãn Bình chờ đợi thời cơ thuận tiện, lấy xe Honda của Dzoãn Phượng phóng ra khỏi quân lao. Từ khi nổ máy xe cho đến khi vọt ra khỏi quân lao Gò Vấp chỉ mất không đầy 5 phút đồng hồ. Quản giáo, vệ binh có phát hiện ra cuộc vượt ngục, sớm nhất cũng phải mất một giờ đồng hồ sau, khi ca lao động buổi chiều bắt đầu. Tôi nói sớm nhất là vì thông thường, những người tù có thân nhân thăm nuôi kiểu đó, nếu quản giáo, vệ binh được "đấm mõm" ngon lành, chúng sẽ chấp nhận để cho người tù đó được miễn lao động ca chiều. Điều tôi lo ngại là chỉ có anh Dzoãn Bình được vô gặp Dzoãn Phượng, còn tôi chỉ có thể vô lén, và nếu tôi vô lén chót lọt, cuộc vượt ngục của tôi và anh Dzoãn Bình mới thực sự tiến hành.
Theo sự bàn bạc của chúng tôi, Dzoãn Phượng sau khi lẻn ra bên ngoài, sẽ chờ ở một chỗ nào đó kín đáo gần đó, để có thể quan sát cổng ra vô quân lao Gò Vấp. Trong khoảng nửa tiếng đến một tiếng sau, nếu thấy chúng tôi đi xe Honda trốn ra được, Dzoãn Phượng sẽ không về nhà, mà nhanh chóng gọi xe ôm đến ẩn náu tạm ở nhà bà con, nơi đã có hai em gái là Dzoãn Hoàng và Dzoãn Điệp chờ sẵn. Nếu trong thời gian một tiếng đồng hồ sau, không thấy chúng tôi đi xe Honda trốn ra, Dzoãn Phượng sẽ thản nhiên trở lại quân lao Gò Vấp với gói đồ ăn mua sẵn, nói là ông Dzoãn Bình bảo ra ngoài mua thêm...
Chuẩn bị đầy đủ và kỹ càng như vậy, chúng tôi tin là nếu có được 5 phút thực sự an toàn, chúng tôi se sẵn sàng chấp nhận phiêu lưu vượt ngục. Bằng không, chúng tôi sẽ bình tĩnh mai phục, chờ đợi thời cơ thuận lợi vào dịp khác. Như vậy, sẽ không có một sự thiệt hại nào về vật chất cũng như tính mạng cho chúng tôi. Hoàn cảnh của anh Dzoãn Bình lúc đó rất bi đát. Nếu không vượt ngục, anh sẽ không có thuốc men điều trị và sẽ chết trong ngục. Qua kinh nghiệm về cộng sản, anh biết, anh sẽ không bao giờ được cộng sản trả tự do. Riêng bản thân tôi, khi tới quân lao Gò Vấp, tôi mới biết, cộng sản đã biết quá rõ về tôi. Với "tội" hồi chánh, "tội" lên đài phát thanh VOA tuyên truyền chống cộng sản, và "tội" làm cho Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, chắc chắn tôi sẽ bị cộng sản tử hình, hoặc ít nhất cũng sẽ bị cộng sản cầm tù chung thân. Vì cả anh Dzoãn Bình lẫn tôi đều hiểu được số phận tận cùng bi đát đang chờ đợi mình ở cuối đường hầm, nên hai anh em chúng tôi đã quyết tâm vượt ngục bằng mọi giá. Vấn đề bây giờ chỉ còn là thời gian, khi nào chúng tôi sẽ có được cơ hội ra ngoài lao động ở khu gia cư quân lao Gò Vấp?...

KỲ  49

Ngay từ khi bị cộng sản bắt vô tù, tôi vô cùng hối hận cho sự lầm lỡ của mình, và quyết tâm phải vượt ngục bằng mọi giá. Tôi biết, ngục tù của cộng sản vô cùng kiên cố, người cộng sản cũng rất tàn nhẫn, sẵn sàng bắn bỏ tù bất cứ lúc nào, và dù có may mắn vượt thoát được nhà tù nhỏ, tôi cũng còn phải tìm cách để vượt thoát ngục tù lớn để ra ngoại quốc. Còn nếu vượt ngục được rồi mà vẫn tiếp tục sống trong chế độ cộng sản, thì trước sau gì tôi cũng sẽ bị cộng sản bắt lại. Biết vậy, nhưng tôi tin, dù lao tù của cộng sản có kiên cố đến đâu đi nữa, một khi mình đã quyết tâm vượt ngục, thì một năm, hai năm, ba năm... trước sau gì mình cũng sẽ tìm ra kẽ hở để trốn thoát.
Trong thời gian bị giam giữ tại Quân lao Gò Vấp, trước khi gặp anh Dzoãn Bình, tôi cũng đã nhiều lần tìm cách vượt ngục, nhưng chưa gặp cơ hội. Quân lao Gò Vấp có mấy hàng rào thép gai từ trong ra ngoài. Lực lượng canh gác của vệ binh được chia làm nhiều toán, lại có cả quân khuyển. Việc leo trèo hoặc chui qua những hàng rào kẽm gai về đêm, cũng như cách đánh lạc hướng thính giác của quân khuyển là điều có thể làm được. Nhưng điều khó khăn nhất chính là trở ngại tù canh gác tù trong mỗi phòng giam. Thời gian đó, để đề phòng tù vượt ngục, cộng sản đã bắt những người tù chúng tôi phải chia thành từng nhóm, mỗi nhóm hai người, có tránh nhiệm thay phiên nhau thức hai tiếng đồng hồ để canh gác tù. Trong thời gian canh gác, chúng tôi không được phép nằm, ngồi, mà phải liên tục đi lại trong phòng giam. Đèn trong phòng giam phải bật sáng suốt đêm. Vệ binh canh gác đi lại bên ngoài có thể mở chiếc cửa tò vò bất cứ lúc nào để ngó vô kiểm soát, theo dõi, hoặc gọi người tù gác tù lại gần cửa tò vò bắt báo cáo. Để tránh tình trạng cả hai người tù cùng canh gác, thông đồng với nhau vượt ngục, danh sách tù gác tù luôn luôn thay đổi, phiên này gác chung với người này, phiên sau lại phải gác chung với người khác.
Trong điều kiện khó khăn như vậy, để có thể vượt ngục, tôi phải vượt qua mấy khó khăn mà khó khăn lớn nhất, tôi chỉ có thể vượt ngục cùng với người bạn tù cùng canh gác với mình. Tôi biết, để có thể kiếm được một người bạn tù mình tin tưởng là điều rất nan giải, nhưng nếu kiên nhẫn, biết cách tìm kiếm, thuyết phục, điều này còn có cơ hội dễ thực hiện hơn, so với việc thuyết phục người bạn tù cùng canh gác, chấp thuận để mình vượt ngục, còn họ ở lại lãnh nhận sự trừng phạt của cộng sản.
Trong số những người bạn tù tôi quen biết, trước khi gặp anh Dzoãn Bìn, tôi chỉ tin tưởng được có hai người. Một anh tên Quang, gốc Thanh Hoá, thuộc lực lượng chính quy Bắc Việt, về hồi chánh, từng tình nguyện tham gia lực lượng Delta Force, sau lấy vợ Huế, có một con trai. Quang tính khí ngang tàng, liều lĩnh, nóng tính, gặp bất cứ điều gì trái tai gai mắt, là la hét chửi bới, và nhào vô đập lộn, bất kể đối thủ là ai, một người hay cả chục người. Ngay bản thân tôi, khi mới chân ướt chân ráo bước vô Quân Lao Gò Vấp, ngay tối hôm đầu tiên, trong lúc chơi cờ tướng với Quang, chỉ vì tôi đùa cợt về một hai nước cờ,  Quang đã nổi khùng, chửi tôi, rồi người nhào vô đánh tôi. Sau trận đập lộn đó, tôi và Quang trở thành bạn thân. Tình bạn của chúng tôi trở nên tha thiết hơn, sẵn sàng sống chết cho nhau hơn, sau lần tôi liều mạng cõng Quang, bất chấp lệnh của quản giáo Trường. Câu chuyện đầu đuôi thế này...
Quang vì tính hay đập lộn, nên nhiều lần bị quản giáo bắt giam trong conex. Lần Quang bị giam thê thảm nhất là lần Quang đập lộn với một người tù "tự quản", thuộc loại "gà nòi" của quản giáo Trường. Thông thường bị giam trong conex 5 ngày đã là khủng khiếp, đằng này lần đó Quang bị phạt giam tới 7 ngày! Ngày thứ 7, ngay từ buổi sáng, một người tù nấu bếp cho chúng tôi biết, Quang đã hết "nhúc nhích". Chúng tôi sốt ruột vô cùng, nhưng đành bất lực.
Chiều hôm đó, anh em tù đang xếp hàng điểm danh chuẩn bị vô phòng giam, thì tên quản giáo Trường bước tới ra lệnh:
- Tất cả "chúng anh" đứng nghiêm chờ tôi.
Quản giáo Trường là người thiểu số, nói tiếng Việt không sõi, và không hiểu sao, y có tật chuyên môn gọi "các anh" là "chúng anh".
Sau khi ra lệnh cho chúng tôi đứng nghiêm chờ, tên Trường bước tới conex ở ngay trước phòng giam A-1, mở khoá. Quang đã bị giam trong đó đúng một tuần lễ! Ai bị giam trong conex đều biết, đó là cả một cực hình, nhất là vào những ngày nắng hè oi bức. Trước đó, đã có người bạn tù phải tự tử trong conex vì không chịu đựng nổi sự khổ ải, thì đủ biết bị giam trong đó nguy hiểm và khủng khiếp đến thế nào. Cửa conex đã mở, nhưng chúng tôi không thấy bóng dáng Quang đâu cả. Mùi hôi hám trong conex bốc ra nồng nặc, khiến tên quản giáo Trường thụt lùi lại mấy bước, vừa bịt mũi, vừa khạc nhổ lia lịa. Chúng tôi lo ngại, xót xa cho Quang, nhưng phải im lặng bồn chồn chờ đợi. Tên quản giáo Trường quay về phía chúng tôi, vẫy vẫy chiếc dùi cui, chỉ hai người đứng đầu hàng, phía bên phải, rồi hét giọng e é:
- Hai anh kia, đi vô lôi cổ nó ra...
Hai người tù vội vàng chui vô trong conex, nửa khiêng, nửa kéo Quang ra ngoài. Hai chân Quang vẫn bị còng, thân hình Quang tiều tuỵ, nhẹ tênh, nét mặt thất thần...
Hai người tù vừa khiêng Quang ra đến vỉa hè nhà ăn, thì tên quản giáo Trường hét lên:
- Để nó xuống đó, hai anh đi về hàng.
Hai người tù vội để Quang xuống vỉa hè nhà ăn, rồi trở lại hàng đứng. Vì nhà ăn đối diện phòng giam A-1, và giữa các sân của mỗi phòng giam đều có hàng rào kẽm gai, cửa qua lại giữa các sân cũng làm bằng dây kẽm gai,  nên qua những lớp rào kẽm gai, chúng tôi thấy Quang ngồi đó, chống hai tay xuống đất, vai so, cổ rụt... Quang ho rũ rượi một hồi, rồi đưa cặp mắt buồn bã, u uất và tuyệt vọng nhìn chúng tôi....
Tên quản giáo Trường chỉ chiếc dùi cui về phía Quang hét:
- Anh ngồi im đó, chờ lệnh tôi.
Nói xong, quản giáo Trường bước vô sân phòng giam A-2 chúng tôi. Hắn lừ lừ liếc nhìn chúng tôi bằng cặp mắt hằn học, oán giận, đỏ kè những gân máu...
Quản giáo Trường thấp khoảng thước tư, thước rưỡi, trán thấp, tóc rễ tre, có gương mặt u ám, vô học, điển hình của những người cán bộ cải cách ruộng đất. Là người thiểu số, không biết là Nùng, Thượng hay Êđê, Trường nói tiếng Việt không sõi. Tính tình Trường độc ác, hằn học với tù và rất hay kiếm cớ để hành hạ tù. Thời gian đó, tại Quân lao Gò Vấp, vệ binh quản giáo VC có phong trào học võ nghệ, được chính một số tù là võ sư, có võ đường, đứng ra huấn luyện. Với bản chất tàn nhẫn, độc ác, sau khi ti toe học được ít võ nghệ, vệ binh quản giáo tại Quân lao Gò Vấp thường kiếm cớ quy chụp tù tội này, tội nọ rồi mang tù ra dợt hội đồng ngay ngoài sân chơi bóng chuyền, hay trong phòng thẩm vấn. Trong số những quản giáo thích mang tù ra đánh hội đồng, có quản giáo Trường. Tuy nhiên, quản giáo Trường cũng là người rất bộc trực, ruột ngựa, hay mở miệng chửi cộng sản. Mỗi khi về Bắc thăm gia đình trở vô, quản giáo Trường thường tìm đến tù nhân tâm sự, chửi bới chế độ cộng sản, rồi kể lể những nỗi khổ của gia đình y một cách công khai. Thoạt đầu, nghe y nói, tù nhân đều không tin, cho y có mưu mô gì đây, nên chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Sau riết, có nhiều người hiểu, với bản chất của người thiểu số, ít học, y dễ cuồng tín "nuốt sống, nuốt chín" bả tuyên truyền của cộng sản, nhưng cũng dễ chửi bới cộng sản, khi y và gia đình phải chịu đựng những đói khổ, những lừa lọc do cộng sản gây ra.
Sau một hồi lừ lừ nhìn những người tù chúng tôi bằng cặp mắt oán hận, quản giáo Trường hét:
- Đảng nhà nước cho "chúng anh" vô đây để cải tạo thành người tốt. Vậy mà "chúng anh" vô ơn, "chúng anh" phá phách, đánh lộn. Tù "tự quản" là tù tiến bộ nhất của đảng và nhà nước. Anh Quang đánh tù "tự quản" là đánh phá cách mạng, đánh phá đảng, là đồ phản động.
Quay qua phía Quang, Trường dơ dùi cui, chỉ chỏ, hò hét:
- Anh Quang có biết tội phản động của anh chưa?
Quang thều thào nói gì đó nghe không rõ. Tên Trường lại hét:
- Để chuộc tội phản động của anh, tôi ra lệnh anh Quang phải bò từ đó về hàng!...
Nghe tên Trường hét bắt Quang phải bò về hàng, anh em tù trong hàng bỗng xôn xao, phản đối. Là những người tù chính trị, chúng tôi chấp nhận bị  trừng phạt như bị cùm chân, cùm tay, bị cắt khẩu phần ăn, bị tống giam trong conex, bị cấm nhận quà thăm nuôi, kể cả bị đánh đập hay bị xử bắn, nhưng chúng tôi không dễ gì chấp nhận bị làm nhục như bị cộng sản bắt phải quỳ, phải bò...
Tên quản giáo Trường quay lại phía chúng tôi, múa chiếc dùi cui rồi hét:
- "Chúng anh" câm miệng!
Quay sang Quang, quản giáo Trường lại thét:
- Anh Quang, nghe tôi nói chưa? Anh bò ngay về hàng!...
Anh em tù chúng tôi vẫn xôn xao phản đối. Còn Quang lúc đó, vì quá mệt mỏi, chân lại bị xiềng bằng loại xiềng gang do lò rèn của trại chế ra theo kiểu vẽ ác độc của tên trưởng trại, nên Quang rất lúng túng. Thêm nữa, từ vỉa hè nhà ăn xuống đến sân của phòng giam A-1 có hai hay ba bậc rồi lại thêm một rãnh thoát nước mưa rộng khoảng hơn gang tay, làm cho Quang quýnh quáng, muốn bò mà không bò được, trông thật tội nghiệp vô cùng... Tôi lúc đó đứng ngay hàng đầu, nên thấy rất rõ cảnh tang thương của Quang. Vì tính khí ngang ngược của Quang nên trong tất cả những người bạn tù, chỉ có tôi là người duy nhất chơi thân với Quang. Nay trong hoàn cảnh đó, Quang không thể trông cậy vào ai ngoài tôi. Tôi cũng biết, tôi chơi thân với Quang, bạn tù ai cũng biết, nên trong thâm tâm, tôi thấy mình có trách nhiệm phải giúp đỡ Quang hơn cả... Nhưng giúp cách nào đây?.. Trong lúc bối rối, không kịp suy nghĩ, không kịp hiểu mình phải làm gì, và tại sao mình lại hành động như vậy, bỗng dưng tôi bước ra khỏi hàng, đi thẳng về phía Quang. Mới bước được vài bước, tôi đã nghe tiếng quản giáo Trường hét lên, vừa ngạc nhiên, lúng túng, vừa phẫn nộ:
- Ê... đứng lại! Anh Chí đứng lại!
Tiếng thét của quản giáo Trường vừa dứt thì tôi cũng đã đến bên Quang. Tôi xoay người, ngồi xuống, chìa lưng về phía Quang và nói:
- Ôm lấy cổ tao, tao cõng...
Quang ngần ngừ và hoảng hốt:
- Đừng mày, nó đánh mày chết.
Tôi dứt khoát:
- Tao nói mày ôm cổ tao...
Vừa nói, tôi vừa xoay người lại, nắm lấy hai cánh tay khẳng khiu của Quang, kéo choàng qua cổ tôi, rồi đứng dậy, cõng Quang về hàng. Hai chân của Quang bị còng bằng còng sắt nên lủng lẳng, đụng vào đùi tôi đau điếng, nhưng tôi cắn răng chịu... Một bước, hai bước,... Cả trại tù bỗng im lặng rợn người... Rồi tự dưng, một tiếng, hai tiếng vỗ tay nổi lên rời rạc, rồi tất cả gần trăm người tù cùng vỗ tay vang dội. Tôi xúc động muốn ứa nước mắt... Quay sang phía quản giáo Trường, tôi thấy mặt y hầm hầm, mắt y lừ lừ nhìn tôi, rồi y quát:
- Ai cho phép anh cõng tên Quang?
Tôi biết, trong giây phút không kịp suy nghĩ, tôi đã làm một điều vô cùng nguy hiểm. Tôi sẽ phải trả giá rất đắt cho hành động của tôi. Vì vậy, để gỡ gạc phần nào nguy hại, tôi cố gắng trả lời quản giáo Trường bằng một giọng thật nhã nhặn:
- Thưa quản giáo, như quản giáo đã nhiều lần nói, chúng tôi vô đây là để được cải tạo trở thành người tốt hơn, chứ không phải để bị làm nhục. Nếu quản giáo thấy anh Quang có tội, quản giáo cứ việc trừng phạt theo đúng nội quy của trại tù, chứ không thể bắt anh ta bò, vì trong nội quy của trại tù không hề có điều khoản nào cho phép quản giáo trừng phạt tù bằng cách bắt tù phải bò.
Quản giáo Trường lừ lừ nhìn tôi, miệng lầu bầu mấy tiếng, tôi nghe không rõ. Rồi y quát lên:
- "Chúng anh" đi vô!
Tôi thở phào thoát nợ, và chẳng hiểu sao lúc đó, trong lòng tôi bỗng dâng lên niềm cảm xúc rất vô lý, "thầm biết ơn" quản giáo Trường đã "tha tội" cho tôi!?
Sau lần xảy ra biến cố đó, tình bạn giữa tôi và Quang vô cùng thân thiết. Tôi tin tưởng Quang đến độ một đêm nọ, tôi nói với Quang ý định vượt ngục của tôi, và rủ Quang cùng vượt ngục khi hai người cùng chung một phiên gác. Tôi nói với Quang mỗi ca gác 2 tiếng, chúng tôi phải mất một tiếng để hai người gác trước ngủ say. Tiếp theo, chúng tôi phải chờ cho tên vệ binh mở cửa tò vò của phòng giam, để báo cáo mọi chuyện yên tĩnh. Sau đó, thời gian để tên vệ binh trở lại mở cửa tò vò lần kế phải mất ít nhất nửa tiếng đến một tiếng. Như vậy chúng tôi sẽ có nửa tiếng đồng hồ để vượt ngục.
Tôi cũng nói cho Quang biết, địa hình của Quân lao tôi đã nắm rất rõ. Thời đó, nóc Quân lao thường bị thủng, mỗi khi mưa, nước chảy vô trong rất nhiều, nên đôi khi chúng tôi được lệnh leo lên trên nóc, lấy nhựa đường bít những chỗ thủng. Tôi may mắn được lên nóc Quân lao hai lần. Lần thứ nhất, tôi quan sát địa hình, địa vật chung quanh, và tình cờ phát hiện ra một cơ hội đặc biệt có thể giúp tôi vượt ngục tại Quân lao Gò Vấp dễ dàng....
Tôi không biết cấu trúc của khu B và C của Quân lao Gò Vấp như thế nào, nhưng khu A có 3 phòng giam là A-1, A-2 và A-3. Ngay đằng sau mỗi phòng giam có một phòng vệ sinh dính liền, với mái bằng, đổ bê tông rất kiên cố. Trên nóc của phòng vệ sinh có một lỗ vừa để thông hơi, vừa để lấy ánh sáng mặt trời. Lỗ thông hơi này rộng mỗi chiều khoảng 60 phân. Nằm giữa lỗ thông hơi là hai thanh sắt loại cọc hàng rào kẽm gai, được đặt song song, cách nhau khoảng 20 phân. Vì hai thanh sắt này được đặt ngay trong lớp bê tông khi mới xây, cộng với mặt có rãnh trũng của thanh sắt quay lên trời, nên lâu ngày, nước mưa đọng trong rãnh, đã ăn mòn cả hai thanh sắt. Ở trong phòng vệ sinh, nhìn từ dưới nhìn lên, thì thanh sắt vẫn còn nguyên vẻ kiên cố. Nhưng nhờ lên trên nóc nhà, tôi có cơ hội nhìn hai thanh sát từ phía trên, thấy được sự rỉ sét nhiều tới mức, một người có thể dùng một thanh sắt hay khúc gỗ bẻ gẫy cả hai thanh sắt này dễ dàng.
Phát hiện ra điều này tôi rất mừng. Để có thể tận dụng được cơ hội này, tôi bí mật "đổi chác" cho một anh tù ở nhà bếp để lấy một ít muối. Ngoài ra, tôi cũng nhặt được một ống sắt làm ống nước, dài khoảng 60 phân, có chu vi vừa bằng cổ tay. Tôi vứt ống sắt này ngay ở hàng rào, bên ngoài phòng vệ sinh. Lần lên nóc Quân Lao lần thứ hai, tôi kín đáo mang theo gói muối, trộn lẫn với cát, rồi nhét vô rãnh hai thanh sắt, để tăng tốc độ rỉ sét, bào mòn hai thanh sắt. Tôi cũng kín đáo mang theo ống sắt, rồi để ngay cạnh lỗ thông hơi trên nóc phòng vệ sinh. Vì đó là lỗ thông hơi của nhà cầu, rất hôi thối, nên mọi người đều tránh xa, không một ai để ý đến việc làm kín đáo của tôi. Ống sắt để cách lỗ thông hơi không đầy 20 phân, được các loại dây leo bao phủ, nên rất an toàn. Tôi dự định, khi vượt ngục, từ bên dưới nhà vệ sinh, tôi chỉ cần thò tay lên là nắm được ống sắt và dùng nó bẻ gẫy hai thanh sắt chắn lỗ thông hơi một cách dễ dàng. Sau đó, với khả năng của một thường xuyên chơi xà đơn (high bar), xà kép (parallel bars) ở trung tâm thể thao Phan Đình Phùng thời trước 1975, tôi có thể chui qua lỗ thông hơi ra ngoài một cách dễ dàng....

KỲ  50

Nung nấu trong lòng ý chí vượt ngục bằng mọi giá, tôi đặt hết niềm tin tưởng vào Quang và đinh ninh Quang sẽ vượt ngục cùng với tôi. Nhưng tôi không ngờ, hai ngày sau, Quang buồn rầu cho tôi biết, Quang không thể vượt ngục. Ngay khi nghe Quang nói, tôi biết ngay lý do Quang quá yêu vợ và thương con. Với Quang, tất cả mọi hạnh phúc trên cõi đời này, kể cả sự tự do của chính bản thân Quang, sẽ hoàn toàn vô nghĩa, nếu Quang không được sống bên cạnh vợ con. Viễn ảnh vượt ngục ra ngoài, trở về Huế đón vợ con rồi vượt biên ra ngoại quốc, là cả một chuyện vô cùng xa vời và không tưởng đối với Quang. Quang chấp nhận ở lại trong tù, chịu đựng tất cả mọi nỗi khổ đau, để chờ ngày được đoàn tụ với vợ con, hơn là phiêu lưu vào con đường vượt ngục vô cùng nguy hiểm.
Quang từ chối vượt ngục làm tôi rất buồn, nhưng tôi không hề trách Quang. Tôi cũng không hề lo ngại về ý định vượt ngục mà tôi đã tin tưởng tâm sự với Quang. Tôi hiểu Quang là người rất trung thành với bằng hữu.
Hai ngày sau ngày Quang từ chối vượt ngục, phòng giam A-2 của tôi nhận thêm một người tù cao to đặc biệt, có tướng mạo giống người Châu Âu, với nước da trắng xanh, bộ râu quai nón xồm xoàm và mái tóc để dài tới ngang vai. Khác hẳn tất cả những người tù chúng tôi một khi vô phòng giam đều được cởi còng tay, xiềng chân, người tù đặc biệt này vẫn bị còng tay, xiềng chân. Thấy người tù mới khí vũ hiên ngang, tướng tá ngon lành, tôi lân la làm quen, và được anh cho biết, tên anh là Vũ Hoàng, nguyên võ sư có võ đường ở Chợ Lớn. Hỏi anh tội gì bị bắt, anh chỉ cười không nói.
Chiều tối hôm đó, tôi lấy phần cơm đem vô cho anh. Anh cảm ơn, nhưng không hề đụng đũa đụng chén. Trong khi chúng tôi ăn, anh ngồi nhắm mắt dưỡng thần, thở ra hít vô kêu vo vo mà hơi thở rất dài và sâu. Tôi nghĩ có lẽ anh là võ sư nên hơi thở phải khác hẳn người thường...
Tối hôm đó, anh em chúng tôi mấy người xúm xít nghe anh nói chuyện. Tuy ở trong tù, nhưng thái độ của anh ung dung tự tại, làm chủ được cả thể xác lẫn tinh thần, nên chúng tôi rất khâm phục.
Đến 9 giờ tối, tiếng kẻng nổi lên, báo giờ đi ngủ. Chúng tôi ai về chỗ người nấy, nhưng ai cũng bồi hồi trong dạ khi nghĩ đến những câu chuyện lên võ đài của anh, chuyện võ sư Bảo Truyền biểu diễn trên truyền hình như thế nào, chuyện sư phụ của anh sang Miên bị bùa ngải ra làm sao...
Trằn trọc nghĩ đến những câu chuyện anh kể, nghĩ đến mưu kế vượt ngục của mình khó có thể thực hiện, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Đang ngủ, bỗng nhiên tôi giật mình nghe hai, ba tiếng súng nổ, rồi tiếng kẻng ngũ liên đổ hồi, tiếng chó sủa, tiếng vệ binh quản giáo la hét ầm ĩ bên ngoài... Tôi vội ngồi dậy, nhưng không dám ra khỏi mùng, vì nội quy của trại đã quy định, trong đêm tối, khi nghe kẻng báo động, mọi tù nhân phải ngồi nguyên trong mùng. Ai đi lại lung tung có thể bị quản giáo, vệ binh "xử lý" tại chỗ. "Xử lý" ở đây có nghĩa, người nào vi phạm sẽ bị bắn bỏ.
Tuy ngồi ở trong mùng, nhưng tôi vẫn nghe tiếng anh em bạn tù xôn xao:
- Vũ Hoàng trốn rồi!
- Vũ Hoàng nào?
- Vũ Hoàng võ sư mới vô hồi chiều...
Tôi ngạc nhiên, vội hé mùng, nhìn về phía Vũ Hoàng ngồi hồi tối, cách chỗ tôi nằm khoảng bốn manh chiếu. Vì đề phòng tù vượt ngục, nên trong phòng giam lúc nào đèn cũng sáng trưng. Nhờ vậy, tôi nhìn thấy rõ, chỗ Vũ Hoàng ngồi lúc tối kể chuyện cho chúng tôi nghe, bây giờ trống trơn. Ngay giữa manh chiếu rách là chiếc còng tay và chiếc cùm chân mà Vũ Hoàng đã tháo ra và để lại thật gọn gàng. Tôi vừa khâm phục vừa tự hỏi, không biết Vũ Hoàng đã vượt ngục bằng cách nào, và sao anh lại có thể vượt ngục nhanh như chớp vậy? Thông thường, bất cứ người tù nào muốn vượt ngục, bao giờ cũng phải mất một thời gian điều nghiên đường đi nước bước, trước khi vượt ngục. Riêng Vũ Hoàng thì không vậy. Buổi chiều anh bước vô phòng giam với chiếc còng tay, chiếc cùm chân và xích sắt cầm trên tay nặng tổng cộng cả chục kí lô do tù lò rèn "tự quản" làm ra, để rồi ngay trong đêm, anh đã tháo còng, tháo cùm, vượt ngục... Anh quả thực tài ba!
Nghe tiếng súng nổ, sau đó mới đến tiếng kẻng ngũ liên đổ dài từng hồi, rồi tiếng vệ binh, quản giáo la hét cùng tiếng quân khuyển sủa ầm ĩ suốt cả nửa tiếng đồng hồ,... chúng tôi đoán, anh Võ Hoàng đã vượt ngục thành công. Kinh nghiệm tại Quân lao Gò Vấp cho chúng tôi biết, một người vượt ngục, khi bị phát hiện, lệnh báo động được ban ra, chỉ trong mươi, mười lăm phút là tối đa, người tù đó sẽ bị bắt lại, hoặc bị bắn chết.
Từ khi vô Quân lao Gò vấp, tôi biết có bốn cuộc vượt ngục, tất cả đều bị thất bại.  Năm người bị bắn chết ngay giữa hàng rào với bức tường gạch kiên cố quanh Quân lao. Xác họ bị vùi ngay nơi họ bị bắn chết. Không điều tra, không báo cáo, không cho cả thân nhân của người tù biết. Trong bốn cuộc vượt ngục đó chỉ có một một người tù bị bắt lại. Anh này bị đánh đến ngất xỉu ở ngoài hàng rào. Sau đó, hai vệ binh nắm hai chân người tù kéo dọc theo con đường lót sỏi, đi về phía conex ở khu B. Hôm đó, tôi nhìn qua ô tò vò ở cửa sắt, thấy rõ mặt người tù đầy máu, đầu người tù bị kéo, lúc lật sang bên trái, lúc lật sang bên phải, không có dấu hiệu gì chứng tỏ người tù còn sống. Vậy mà như có  phép màu, người tù đó vẫn sống, sau khi trải qua những ngày nóng bức khùng điên trong conex, những trận đòn thù tra tấn liên miên. Chỉ tội là anh bị câm và điếc mất một bên tai. Một mắt của anh cũng bị hư hoàn toàn, vì bị vệ binh đánh lòi con ngươi ra ngoài, để lại một hốc mắt sâu hoắm, lúc nào cũng rỉ máu mủ, ngồi đâu cũng có ruồi bâu...
Sau khoảng nửa tiếng ầm ĩ, huyên náo bên ngoài, tôi nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng hét của vệ binh, tiếng súng lên đạn nghe thật ghê rợn... rồi hai cánh cửa sắt phòng giam A-2 mở toang, kèm theo ánh đèn pha sáng rực chiếu từ bên ngoài. Quản giáo Trường hét lên:
- "Chúng anh" tất cả nằm xuống, không được nhúc nhích...
Nằm trong mùng, tôi âm thầm quan sát, thấy hai tên vệ binh cầm súng AK-47 hườm sẵn, bước vô, chĩa súng về hai phía bên trái và bên phải phòng giam. Sau một phút im lặng, không thấy động tĩnh gì, hai tên vệ binh khác bước vô, đi thẳng tới chỗ nằm của anh Vũ Hoàng. Một tên vệ binh cúi nhặt chiếc còng và chiếc cùm sắt, vật dụng cuối cùng của anh Vũ Hoàng để lại, rồi đi thẳng ra ngoài. Sau đó, hai tên vệ binh khác cùng quản giáo Trường bước vô, chiếu rọi đèn bấm tứ tung trong phòng giam, rồi chúng bước về phía nhà cầu. Không hiểu sao, ngay giây phút đó, người tôi nóng ran, linh tính sui khiến, tôi đoán ngay, anh Vũ Hoàng đã vượt ngục bằng chính lỗ thông hơi trên nóc nhà cầu... Nhưng tôi đã đoán lầm. Anh Vũ Hoàng không vượt ngục bằng lối đó.
Sau một hồi lục soát, tất cả vệ binh, quản giáo đi ra ngoài. Tên quản giáo Trường bước ra sau cùng với hai tên vệ binh, rồi tiếng cửa sắt khép lại ghê rợn, tiếng khoá loảng xoảng bên ngoài...
Ngay khi cánh cửa sắt được khoá lại, tôi vội vàng vô nhà cầu giả vờ đi tiểu. Ngước mặt nhìn lên nóc nhà cầu, tôi thấy lỗ thông hơi vẫn còn nguyên vẹn. Một khung trời đen nhỏ xíu với vài vì sao nhấp nháy, như réo gọi tôi hãy vượt thoát tìm đến với tự do...
Trở về mùng, tôi thao thức không ngủ. Tôi không hiểu anh Vũ Hoàng đã vượt ngục bằng cách nào mà tài tình đến như vậy. Tôi ước ao có được tài năng của anh để vượt ngục, để làm một người anh hùng, đêm đêm tung hoành đó đây, "làm thịt" những tên cộng sản tội đồ của dân tộc... Trong đêm khuya, vang vọng từ ở vùng nào đó rất xa, có tiếng chuông nhà thờ, tiếng xe chạy rì rầm như có như không... Tôi đoán chừng lúc đó khoảng 4 giờ sáng.
Cuộc vượt ngục thành công của anh Vũ Hoàng làm cho ban chỉ huy VC tại Quân lao Gò Vấp rất điên đầu vì  chúng không tài nào điều tra được anh Vũ Hoàng đã trốn trại bằng cách nào, ra bằng ngả nào. Anh đến thật bất ngờ, ra đi cũng bất ngờ, và vật dụng duy nhất chứng tỏ anh đã đến và đi là chiếc còng và chiếc cùm với chùm dây xích anh để lại. Tuy không biết anh Vũ Hoàng đã trốn bằng cách nào, nhưng ban chỉ huy VC vẫn ra lệnh tăng cường các biện pháp an ninh của trại giam. Thêm hai hàng rào kẽm gai được dựng lên chung quanh trại. Hàng tấn dây kẽm gai được gửi vô các phòng giam để phủ lên lớp dây kẽm gai cũ trên các trần nhà. Nhưng đau khổ và tuyệt vọng cho tôi hơn cả là một lớp dây kẽm gai mới dầy đặc, cũng được phủ lên trên nóc lỗ thông hơi trong nhà cầu. Như vậy là ước mơ vượt ngục qua lỗ thông hơi trong nhà cầu của tôi bị tiêu tan. Tôi phải tìm cách khác. Cách khác là cách nào, tôi nghĩ chưa ra, nhưng tôi biết nếu mình đã quyết tâm và kiên nhẫn, thì sớm muộn gì cũng sẽ có cách.
Hai tháng sau, chúng tôi đón nhận một đợt tù cải tạo mới chuyển về, trong đó có anh Dzoãn Bình. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, tình cảm giữa tôi với anh Dzoãn Bình trở nên vô cùng thân thiết. Sống trong A-2 lúc đó, đại đa số là hồi chánh viên trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1960 đến 1975, trong đó có tới phần ba là lính chính quy Bắc Việt. Còn lại là người Miền Nam. Riêng anh Dzoãn Bình tuy bị VC xếp vào loại hồi chánh, nhưng đúng ra, anh đã bỏ Việt Minh từ thời trước 1950. Sau khi từ vùng Việt Minh kiểm soát trở về Hà Nội, mà ngôn ngữ của Việt Minh thời đó gọi là "dinh T", anh Dzoãn Bình đã vô quân đội Pháp, và là một sĩ quan, nhưng tôi không nhớ rõ anh kể tôi nghe, đến 1954, anh cấp bậc gì.
Đến đây, tôi cũng xin thẳng thắn và thành thật kể lại những sự thực đau lòng, vì những sự thực này sẽ giúp quý độc giả hiểu rõ hơn bản chất của người cộng sản, cùng những tác hại to lớn mà chủ nghĩa cộng sản đã gây cho dân tộc Việt Nam.
Không biết một ai đã nói, con người là sản phẩm của chế độ. Điều đó rất đúng. Tuy không đúng 100% nhưng đúng tới 90%. Trong phòng giam A-2 lúc đó, có tới phần ba là hồi chánh viên gốc chính quy Bắc Việt. Và tôi phải thành thực thú nhận, thành phần này mất nhân tính nhiều hơn so với hai phần ba hồi chánh viên gốc Miền Nam. Vào thời điểm đó, tôi chỉ nhìn thấy sự khác biệt này xuất phát từ những dị biệt về đời sống kinh tế của Miền Nam với Miền Bắc. Miền Bắc đói khổ nên con người sống ở Miền Bắc tham lam, ích kỷ hơn so với Miền Nam. Nhưng anh Dzoãn Bình đã phân tích cho tôi thấy, nguyên nhân khiến lính chính quy Bắc Việt tàn nhẫn, thủ đoạn, ít nhân tính, là do họ sinh ra, lớn lên, trong chế độ CS, do chế độ CS nhào nặn.
Còn người Miền Nam, bản chất họ thuần lương, được sinh ra và lớn lên ở Miền Nam, nên dù có theo CS, cũng chỉ theo một vài năm, nên cái nhân tính, cái thuần lương, đôn hậu vẫn còn ở trong lòng.
Sau này, ngẫm nghĩ những lời anh Dzoãn Bình nói, tôi thấy anh rất có lý. Năm 1954, biết bao nhiêu thân nhân chia tay nhau, kẻ ở lại Miền Bắc, người di cư vô Nam, trong tình nghĩa mặn nồng, khi đó, bản chất, tình người, lòng yêu thương, cùng những đức tính nhân nghĩa lý trí tín, của kẻ ở người đi, đều giống hệt nhau. Vậy mà 20 năm sau, sau 30-4-1975, cũng những người thân thương đó từ Miền Bắc vô Miền Nam, họ đã đổi khác rất nhiều. Họ ăn nói thiếu thành thật, họ tuyên truyền cho VC một cách rẻ tiền, họ trở nên vụ lợi, coi rẻ tình nghĩa, họ mê đắm từ cái xe máy, chiếc đồng hồ, cho đến cái chén đôi đũa... Tôi không muốn vơ đũa cả nắm, nhưng chính kinh nghiệm bản thân trong gia đình tôi, và câu nói "Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng" cho thấy đây là một nỗi đau, một sự băng hoại về lương tâm cho dân tộc VN mà CS là thủ phạm.
Rồi trong những năm sau 1975, thảm kịch đó lại tái diễn, khi chúng ta chia tay với những người thân thương đầy nhân nghĩa, đạo đức, tình người của Miền Nam, để lên đường vượt biên. Hai, ba chục năm sau, khi những người thân thương của chúng ta ra hải ngoại đoàn tụ, hay thăm viếng, chúng ta giật mình và đau buồn khi thấy họ "khác xưa" rất nhiều...
Anh Dzoãn Bình là một người vì lòng yêu nước nên đi theo Việt Minh. Nhưng ngay khi nhìn thấy sự gian trá, xảo quyệt, phi nhân của Việt Minh, anh đã nhanh chóng đoạn tuyệt, nên anh còn giữ nguyên được bản chất thuần lương, đôn hậu, phóng khoáng, chịu chơi của người Việt quốc gia chân chính, của người Việt văn hiến. Vì vậy, khi phải sống với những người cộng sản, dù họ là cộng sản đã hồi chánh, anh Dzoãn Bình luôn luôn coi đó là một cực hình, và anh công khai và thẳng thắn thể hiện thái độ khinh bỉ họ, căm ghét họ, ra mặt. Riêng với tôi, tuy xưng hô anh em, nhưng anh yêu thương tôi như con. Mỗi khi chỉ cho tôi thấy cái xấu xa, bất nhân của người cộng sản, anh vẫn nói với tôi, "Tôi không hiểu sao, cậu khác họ. Cậu không phải là họ". Ngay trong những ngày tháng ấy, tôi đã vô cùng biết ơn tình thương yêu và lòng tin tưởng của anh dành cho tôi. Sau này, nghe tin anh tự tử trong tù, tôi vô cùng xúc động, nhớ lại ngày xưa, anh đã nhiều lần nói với tôi ước nguyện duy nhất còn lại trên cõi đời của anh, là nếu anh trốn thoát được ra nước ngoài, anh sẽ tổ chức ngay một cuộc họp báo quốc tế, để anh nói một câu duy nhất, "Chủ nghĩa cộng sản là thảm hoạ của dân tộc VN, và của toàn nhân loại". Nói xong câu đó, anh sẽ tự tử, chết ngay trước mặt các phóng viên, các nhà báo, các máy quay phim truyền hình quốc tế. Anh nói với tôi, kinh nghiệm sống và sự hiểu biết của anh về cộng sản đã khiến anh có đủ can đảm và đức tin để làm được điều hữu ích cuối cùng của cuộc đời anh trên mặt đất này. Anh muốn cái chết của anh sẽ thắp sáng một sự thật, một chân lý: Chủ nghĩa cộng sản là thảm hoạ cho dân tộc VN và của toàn nhân loại!
Trong suốt mấy chục năm qua, kể từ ngày chia tay anh, hình ảnh anh luôn luôn gắn liền trong cuộc sống của tôi, giúp tôi sống còn, vượt qua những thử thách trong cuộc đời, trong tình người. Mỗi khi có dịp thuận tiện, tôi đều  tâm sự với bạn bè, với vợ con, với tất cả những người tôi quen biết, về anh. Khi bắt đầu làm báo, tôi lấy tên anh làm bút hiệu. Và tôi luôn luôn vững tin, trên con đường tôi đi, dù nguy hiểm hay khó khăn đến thế nào đi nữa, nếu tôi làm đúng, tôi biết đi theo lẽ phải, thì bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, tôi cũng sẽ được anh linh của anh phù hộ. Phù hội lúc tôi sống, và phù hộ ngay cả lúc tôi nằm xuống vì bất cứ lý do gì! Niềm tin của tôi không phải là mê tín, mà là một niềm tin thiêng liêng, có sức mạnh mãnh liệt, và sức mạnh đó đã được chứng minh trên suốt con đường tôi đi, từ Miền Nam ra Miền Bắc, sang Trung Cộng, đến Hồng Kông, rồi tới Úc...
Hơn một lần anh Dzoãn Bình nói với tôi, anh không có con trai, chỉ có ba người con gái, nên anh coi tôi như con trai của anh. Cuộc đời anh có nhiều tâm nguyện, nhiều nỗi buồn, trong đó nỗi buồn lớn nhất, có nhiều ân hận nhất là anh đã làm cho chị Đàm Chi Lan, vợ của anh buồn. Anh khuyên tôi, trong cuộc đời của một người đàn ông, nếu không mang lại niềm vui, hạnh  phúc cho nhiều người, thì ít nhất, cũng cố gắng mang lại niềm vui, hạnh phúc, cho một người, đó là vợ của mình.
Trong suốt thời gian sống tại Quân lao Gò Vấp, cho đến khi bị đưa lên trại tù cải tạo Kàtum, ngoại trừ tôi và anh Nở, anh Dzoãn Bình không hề chơi với một người tù CS nào, bất kể họ là hồi chánh viên hay không. Chính thái độ công khai khinh bỉ, thù ghét một cách quyết liệt của anh, đã dẫn đến một cuộc bề hội đồng, giữa một bên là gần chục tên đầu gấu gốc hồi chánh, và một bên chỉ có anh và anh Nở.

KỲ  51

Sau khi được gặp anh Dzoãn Bình, cuộc đời của tôi ở trong tù không còn tẻ nhạt và vô bổ như trước. Kiến thức đa dạng cùng kinh nghiệm sống phong phú của anh qua những câu chuyện anh kể đã giúp tôi có được những ngày tháng hứng thú và bổ ích. Tôi được nằm ngay bên cạnh anh  phía tay phải. Còn phía tay trái của anh là anh Nở. Anh Nở thì ít nói chuyện, còn tôi và anh Bình thì tối nào cũng thì thầm nói đủ thứ chuyện, từ chuyện gia đình, tình yêu, nghề nghiệp, đến những nhân vật tên tuổi của Miền Nam. Sau này tôi ra ngoại quốc, tình cờ gặp gỡ nhiều nhà văn, nhà báo tên tuổi của Miền Nam, tôi mới biết, hầu hết những chuyện anh nói, đều là sự thật.
Sau vài tháng quen biết và hoàn toàn tin tưởng ở tôi, anh Dzoãn Bình và tôi bàn bạc kế hoạch vượt ngục như tôi đã kể. Chúng tôi biết, cuộc vượt ngục nào cũng rất phiêu lưu, mọi bất trắc đều có thể xảy ra, và khả năng thành công bao giờ cũng rất mong manh. Nhưng chẳng hiểu sao, kế hoạch vượt ngục của chúng tôi lúc đó thật đơn giản, dễ dàng, và cả hai anh em chúng tôi đều tin tưởng sẽ thành công. Vì vậy, chúng tôi đều hồi hộp chờ đợi ngày cả hai anh em cũng được lệnh ra ngoài lao động, để có cơ hội đào thoát tìm tự do như đã dự tính. Giữa lúc cả hai anh em đều hồi hộp chờ đợi trong hy vọng, thì không ngờ, chỉ vì một tích tắc nóng giận mất khôn, tôi đã làm đảo lộn tất cả... Câu chuyện đầu đuôi như sau.
Thời đó, tại Quân lao Gò Vấp, mỗi buổi sáng, anh em tù cải tạo chúng tôi phải xếp hàng trước nhà giam, chờ quản giáo Trường và vệ binh đến lấy người đi lao động. Để tránh tình trạng tù có thể cướp súng vệ binh, quản giáo, nên ban chỉ huy trại giam đã có lệnh bắt vệ binh khi đeo súng, đến trại giam nhận tù, phải đứng ngoài hàng rào kẽm gai. Còn quản giáo khi vô trong hàng rào để điểm danh tù đi lao động thì không được phép đeo súng.
Thông thường, ra ngoài lao động là điều tù nào cũng muốn, vì được thở hít không khí trong sạch tươi mát; được phần nào bớt tù túng khi trông thấy sinh hoạt xã hội bên ngoài; có điều kiện "cải thiện" hái được ít ngọn rau, nhặt được một hai trái ớt, quả chanh; và nếu may mắn, có khi còn được dân thương giấu diếm ở bờ bụi cho ít cà phê, đường, trà, thuốc lào, thuốc lá... Riêng tôi, vì chỉ thích nằm nhà nghe anh Dzoãn Bình kể chuyện, hoặc đọc sách, nên tôi thường cáo ốm, để khỏi phải đi lao động.
Vì lúc đó, công việc tại Quân lao Gò vấp không nhiều, nên quản giáo và ban chỉ huy trại giam cũng không có biện pháp gắt gao đối với việc tù cáo ốm để khỏi phải đi lao động. Nhưng phần vì quản giáo Trường không ưa tôi kể từ lần tôi trái lệnh hắn, cõng Quang về hàng, phần hôm đó số tôi không may, nên cả bốn người tù đứng trước tôi đều lần lượt cáo ốm, nên tên Trường rất bực tức. Khi nhìn thấy tôi đứng ở hàng thứ 5, tên quản giáo Trường càng tức giận, y chỉ chiếc dùi cui vô ngực tôi rồi ra lệnh, giọng gắt gỏng:
- Còn anh này, hôm nay có ốm nữa không?
Trong một thoáng rất nhanh, tôi tính bước ra khỏi hàng, chấp nhận đi lao động ngày hôm nay. Nhưng nghĩ tới câu chuyện hấp dẫn mà anh Dzoãn Bình đang kể dở dang tới đoạn phái đoàn báo chí ra thăm Hạm Đội 7, nên tôi quyết ý "cáo ốm ở lại". Tôi nói, giọng nhún nhường:
- Báo cáo quản giáo, hôm nay tôi vẫn còn ốm, xin quản giáo cho phép tôi...
Tôi nói chưa dứt câu, quản giáo Trường đã đỏ mặt, phùng mang, hét lên:
- Ốm nữa hả? Không được ốm! Hôm nay tôi bảo anh đi lao động!
Tôi mềm mỏng hơn:
- Báo cáo quản giáo, hôm nay tôi còn ốm, ngày mai tôi sẽ..
- Không có ngày mai, ngày kia gì cả. Anh là chuyên môn ốm giả vờ!
- Thưa quản giáo, tôi... ốm thật.
Đến đây, quản giáo Trường tức giận, y vừa dứ dứ chiếc dùi cui vào mặt tôi vừa thét lên:
- Ốm thật cũng đi. Ốm giả cũng đi. Anh có đi không thì bảo?
Đến lúc này tôi thấy quả thật mình đã cưỡi trên lưng cọp. Xuống cũng nguy hiểm mà tiếp tục cưỡi cũng khủng khiếp không kém. Tôi chọn con đường nửa lý nửa tình:
- Thưa quản giáo, nội quy của trại cho phép tù cải tạo nào ốm đau nặng được phép nghỉ lao động. Mà tôi hiện giờ đang ốm nặng thật.
Quản giáo Trường điểm điểm chiếc dùi cui vào ngực tôi, hai mắt hắn long lên sòng sọc, khoảng cách giữa mặt hắn và mặt tôi chỉ có hơn gang tay, và lần này hắn nghiến răng, giọng rít lên, đổi luôn cách xưng hô:
- Mày, mày, mày ngoan cố hả? Tao nói, mày ốm giả vờ...
Bị chiếc dùi cui điểm vào ngực, cộng với lối xưng hô thô lỗ mất dậy của tên quản giáo, khiến tôi cũng nổi điên. Nhưng biết mình thân phận cá chậu chim lồng, nên tôi cố nén giận, nhưng mỗi lời nói ra, tôi đều nói chậm rãi và nhấn từng tiếng:
- Quản... giáo... không... phải là bác sĩ sao biết tôi ốm giả vờ?
Tên Trường càng tức giận thêm:
- Dù ốm thật, mày cũng phải đi lao động hôm nay.
- Tôi...
- Tao đếm đến ba, mày không đi là mày biết tay tao. Một...
- Thưa...
- Hai...
- Tôi...
- Ba...
Tiếng "ba" vừa dứt, tôi chưa kịp nói, chưa kịp có phản ứng gì, kể phản ứng "chấp nhận đầu hàng", chịu đi lao động, thì tên Trường, tay phải vẫn dí chiếc dùi cui vào ngực tôi, tay trái vung lên đấm ngay vào mặt tôi. Nếu lúc đó, tên Trường báo trước cho tôi biết, y sẽ đánh tôi, chắc chắn tôi sẽ đủ khôn ngoan và bình tĩnh đứng yên để chịu đòn. Nhưng vì hành động của tên Trường diễn ra quá đột ngột, nên ngay khi trái đấm tay trái của tên Trường bay tới, theo phản ứng tự nhiên, tôi vội vung tay phải gạt mạnh, đồng thời nắm đấm bên tay trái của tôi bung thẳng vô ngực quản giáo Trường... Nói thì lâu, nhưng sự việc diễn ra lúc đó quá nhanh, và trước khi ý thức được chuyện tày trời mình vừa làm là chuyện gì, thì tôi đã giật mình bàng hoàng khi thấy quản giáo Trường té ngửa ngay trước mặt. Lúc đó, tuy sợ hãi, nhưng sự tức giận khiến tôi mất khôn. Vì vậy, tôi vẫn chỉ thẳng vào mặt quản giáo Trường, miệng hét to và toàn thân run bắn:
- Quản giáo... quản giáo... không được quyền đánh tôi! Tôi có tội cứ đem bắn chết!...
Sau một, hai tích tắc lúng túng, điên khùng, quản giáo Trường vội vã vớ chiếc kèn y vẫn đeo ở cổ, đưa lên miệng thổi liên tục... Những người vệ binh đứng ngoài hàng rào vội vã lên đạn, chĩa súng qua hàng rào rồi ra lệnh cho tôi phải đứng yên, nếu tôi nhúc nhích là bắn!
Tôi đứng yên. Tôi không nhúc nhích. Nhưng miệng tôi vẫn la to:
- Chúng tôi vô đây là để "cải tạo" chứ không phải để quản giáo đánh đập. Quản giáo không được quyền đánh chúng tôi.
Thời đó, tại Quân lao Gò Vấp, vào mỗi buổi sáng từ Thứ Hai đến Thứ Sáu, đều có cán bộ chấp pháp cộng sản từ phòng quân pháp của bộ tổng tham mưu đến Quân lao Gò vấp để làm việc, lấy khẩu cung, tra khảo tù cải tạo, nên khi xảy ra chuyện, ở phía tay phải của phòng giam A-1 lúc đó đang có mấy tên cán bộ chấp pháp, đeo "xà cột" đi ngang qua. Nghe tiếng tôi la hét ầm ĩ, mấy tên vội đứng lại, nhìn qua hàng rào. Có lẽ nhận ra tình thế lúc đó không thuận lợi cho y phát tác, tên quản giáo Trường vội lồm cồm đứng dậy, xua tay và ra lệnh ngắn gọn:
- "Chúng anh" đi vô phòng.
Tất cả mọi người lặng lẽ vô phòng. Riêng tôi không biết nên đi theo bạn tù, hay đứng lại chờ tên quản giáo Trường ra lệnh. Giữa lúc tôi đang ngần ngừ, tên Trường phẩy tay:
- Đi vô, đi vô...
Vừa nói, miệng y vừa lẩm bẩm điều gì, tôi nghe không rõ.
Ngay khi bước vô trong phòng giam, tôi thấy không khí trong phòng khác hẳn. Mọi người đều yên lặng. Mọi sinh hoạt bình thường của buổi sáng mọi ngày như chơi cờ tướng, trò chuyện, nấu trà... đều ngưng hẳn. Ngoại trừ anh Dzoãn Bình và một số người bạn thân thiết của tôi, còn mọi người đều có vẻ xa lánh tôi. Sau mươi phút bần thần, lo ngại, không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi, anh Dzoãn Bình ái ngại và buồn bã trách tôi:
- Cậu nóng quá... cậu mất khôn rồi...
Tôi im lặng nhận lỗi.
Minh "mã tấu" bước tới, nói bộc tuyệch bộc toạc, khiến tôi càng lo sợ:
- Tao nghĩ sớm muộn gì tụi nó cũng sẽ đem mày ra xử bắn.
Cẩm, một hồi chánh viên, gốc cán bộ tuyên truyền cấp trung đoàn của một đơn vị chính quy Bắc Việt, và là người thuộc rất nhiều thơ của Nguyễn Bính, phân tích mạch lạc hơn:
- Bắn thì không, nhưng "nắn xương nắn cốt" mày thì chắc chắn là phải có. Mày cứ lo chuẩn bị sẵn nửa kí lô hạt mã tiền đi là vừa.
Thìn "rỗ", cũng hồi chánh viên, nhưng vì rất nhỏ con, lại rất khôn ngoan, nên tình nguyện "suốt đời kết cỏ ngậm vành" làm chân điếu đóm cho đại ca Minh "mã tấu", thì có vẻ thức thời hơn:
- Mã tiền mà làm cái gì. Sợ dùng một hạt chưa xong thì đã ngoẻo rồi, lấy đâu mà dùng tới nửa ký. Anh Chí phải biết, tù mà đánh quản giáo là dại dột vô cùng.
Tôi thở dài:
- Điều đó ai mà chả biết. Nhưng nó đánh bất ngờ quá nên tôi mới mất khôn đi đánh lại nó...
Ngay lúc đó, có người gõ cửa tò vò. Thìn "rỗ" vội nhanh chân chạy ra. Thìn "rỗ" và người bên ngoài không biết là ai, cùng trò chuyện một hồi, rồi sau đó, Thìn đóng cửa tò vò, chạy vô, thì thầm báo tin cho mọi người biết:
- Chiều nay, tụi nó sẽ đem anh Chí ra đánh hội đồng.
Mọi người ồ lên, xúc động và lo lắng. Tôi lịm người trong sợ hãi và ân hận. Minh "mã tấu" hỏi Thìn:
- Chiều nay là mấy giờ?
Thìn "rỗ" kính cẩn:
- Thưa anh cả, em nghe nói là sau 4 giờ chiều, khi tụi cán bộ của phòng quân pháp ra về, là chúng sẽ đem anh Chí ra đánh cho nhừ xương.
Cẩm, người được coi là "quân sư" cho Minh "mã tấu", hỏi:
- Mày nói "chúng nó" là gồm mấy người?
- Em chỉ biết là tụi vệ binh chúng nó, nhưng không biết bao nhiêu người.
Minh "mã tấu" gầm gừ:
- Thì vẫn "tiểu đội hành quyết SS" của thằng Trường lùn.
Quản giáo Trường có dưới tay một tiểu đội vệ binh. Tiểu đội này thường hành  hạ, đánh đập, nhất là hay đánh hội đồng tù cải tạo, nên được anh em trong tù cải tạo gọi toán đó là "tiểu đội hành quyết SS".
Anh Dzoãn Bình lo lắng hỏi tôi:
- Bây giờ cậu tính thế nào?
Tôi bần thần, đầu óc mụ mẫm, chẳng hiểu anh Dzoãn Bình hỏi vậy là ý gì. Tôi hỏi lại:
- Anh hỏi em tính thế nào là thế nào?
Anh Dzoãn Bình nhìn tôi xót xa, nhưng câu hỏi có vẻ bực mình:
- Thì cậu tính xem, cậu có chịu ra để cho chúng đập cho cậu một trận sống dở chết dở, hay cậu "làm reo" nhất định không chịu ra cho chúng nó đánh.
Nói xong, không chờ tôi trả lời, anh Dzoãn Bình quay sang phía Minh, Cẩm, Thìn, Lợi, Quyền... nói giọng rất thân tình:
- Các anh xem có cách nào để giúp cho Chí khỏi bị chúng đánh hội đồng không?
Xưa nay, tôi biết rất rõ, anh Dzoãn Bình rất ghét những người cộng sản, kể cả những người hồi chánh viên. Lý do, theo anh, một người đã có dính líu tới cộng sản, thì người đó không thể nào đáng tin cậy được. Cũng vì đinh ninh tin tưởng như vậy nên trong tù, sống giữa tất cả những người tù cải tạo gốc hồi chánh viên, anh Dzoãn Bình không hề trò chuyện với ai, ngoại trừ anh Nở, tôi và một người khác, mà lâu ngày tôi đã quên tên. Tuy nhiên, hôm nay vì quá lo ngại tới tính mạng của tôi, nên anh Dzoãn Bình đã thay đổi thái độ, chấp nhận cầu cạnh tất cả những người mà anh ghét.
Cẩm "quân sư" lạnh lùng hỏi, giọng mỉa mai:
- Anh ký giả có mưu kế gì hay nói nghe coi.
Thái độ lạnh lùng, mỉa mai của Cẩm "quân sư" đối với anh Dzoãn Bình cũng vì Cẩm biết rõ thái độ của anh Dzoãn Bình. Cẩm hiểu điều đó, đồng thời Cẩm vẫn cho mình là một người có trình độ và có tài, nổi tiếng mưu lược, nên vẫn coi thái độ cao ngạo của anh Dzoãn Bình là một sự thách đố đối với Cẩm. Tuy nhiên, Cẩm không tiện phát tác với anh Dzoãn Bình, vì Cẩm biết tôi rất quý anh Dzoãn Bình, mà Minh "mã tấu", đại ca của Cẩm, thì lại rất quý tôi vì mê nghe tôi kể chuyện chưởng Kim Dung.
Dĩ nhiên, anh Dzoãn Bình quá hiểu lời nói mỉa mai của Cẩm, nhưng anh vẫn nhẫn nại:
- Tôi có một mưu kế, nhưng chỉ có thể thành công nếu mọi người hậu thuẫn.
Nói đến đó, anh Dzoãn Bình im lặng nhìn mọi người. Tất cả đều im lặng. Tôi biết, từ xưa đến nay, anh Dzoãn Bình khinh bỉ những người gốc cộng sản và anh không hề giấu giếm sự khinh bỉ này, cho dù những người cộng sản đó đã hồi chánh. Vì vậy, những người hồi chánh đó cũng đều rất tức giận anh Dzoãn Bình. Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, cả anh Dzoãn Bình và phe Minh "mã tấu" đều không muốn tôi bị đòn, nên cả hai bên đều chấp nhận một sự liên minh tạm thời. Nhưng liên minh như thế nào và liên minh đó có thành công hay không, thì tôi không biết,
Thấy mọi người không nói gì, anh Dzoãn Bình nói tiếp:
- Tôi thấy cách tốt nhất, khi chúng nó gọi cậu Chí ra ngoài thì cậu nhất định không ra. Chúng nó có thể làm áp lực, nhưng nếu tất cả mọi người trong phòng giam này cùng đoàn kết thì chúng không làm gì được.
Cẩm "quân sư" hỏi:
- Chúng nó có vệ binh, có súng đạn, sao anh ký giả bảo chúng không làm gì được?
Anh Dzoãn Bình gật đầu:
- Tôi đồng ý là chúng có vệ binh, có súng đạn. Nhưng chuyện mang tù cải tạo ra đánh, chỉ là "nghề" của quản giáo Trường và "tiểu đội hành quyết SS" của hắn, chứ không phải của ban chỉ huy Quân lao. Tôi nói vậy không phải là ban chỉ huy Quân lao nó nhân đạo gì, mà chỉ vì nó thâm độc, khôn ngoan hơn, không muốn tai tiếng tới bên ngoài. Vì vậy, nếu mình đoàn kết bảo vệ nhau thì chúng sẽ không dám làm to chuyện.
Cẩm "quân sư" lắc đầu:
- Anh ký giả nói vậy là anh chẳng hiểu cái con mẹ gì về cộng sản tụi nó cả. Chuyện cả trăm vệ binh quản giáo ở cái Quân lao này lôi tù cải tạo ra đánh là chuyện cơm bữa. Chúng đánh tù ở ngoài sân banh, trong nhà ăn, trong phòng thẩm vấn, ngoài vườn rau, trong nhà bếp... Nghĩa là  chúng đánh tù ở khắp mọi nơi, và có hôm nào mà chẳng có. Tôi nói cho anh ký giả biết chớ, tụi cộng sản trên dưới cùng ác độc như nhau. Càng lên trên thì chúng càng độc ác, càng làm to thì chúng càng dã man. Anh bảo tụi này đoàn kết giúp chuyện gì thì được, chớ "làm reo" không cho quản giáo Trường đánh tù thì quả thực tụi này không dám.
Thâm tâm, tôi rất cảm ơn tấm lòng yêu thương của anh Dzoãn Bình dành cho tôi. Nhìn anh, miệng đã móm, nay hàm răng giả đã mất, nên càng thêm móm, tôi rưng rưng muốn khóc. Nhưng tôi phải thú thực, kế hoạch "tù đoàn kết làm reo để bảo vệ tôi" là không thiết thực chút nào. Thứ nhất, bảo tất cả những người tù liều chết chống lại quản giáo Trường để cứu tôi là chuyện không thể được. Thứ hai, với sự tàn nhẫn, ác độc của người cộng sản, làm sao chúng có thể thản nhiên khoanh chấp nhận hơn một trăm người tù chống lại chúng? Hơn nữa, lúc đó, tôi và anh Dzoãn Bình đang chờ đợi ngày không xa sẽ vượt ngục trở về với tự do, thì dại gì, tôi phải "ngoan cố" chống lại chúng.
Thìn "rỗ" phá tan sự im lặng bế tắc bằng một câu nói tôi nghe thấy rất thiết thực, nhưng cũng thật ghê rợn:
- Em thấy tốt nhất là chúng ta nên khuyên anh Chí trưa nay đừng có ăn "cơm". Vì ăn vô mà bị tụi vệ binh chúng nó đánh hội đồng thì chỉ có chết vì vỡ dạ dầy thôi....

KỲ  52

Nghe Thìn "rỗ" nói, mọi người bỗng dưng đều im lặng. Sự im lặng thú nhận một sự thực, chúng tôi hoàn toàn bất lực trong bàn tay của kẻ thù. Tụi vệ binh quản giáo đã muốn lôi tôi ra đánh vào buổi chiều này, thì tôi không có cách nào tránh thoát. Tôi đã gây nên chuyện thì tôi phải có gan gánh chịu. Điều quan trọng nhất bây giờ là làm sao tôi có thể sống sót sau trận đòn thù. Vì vậy, đúng như Thìn "rỗ" nói, trong hoàn cảnh hiện tại, mọi bàn luận đều vô ích, mọi biện pháp đều chẳng giải quyết được gì, chỉ chọc giận tụi nó, và như vậy chỉ nguy hiểm thêm cho tôi mà thôi. Bây giờ cách thiết thực nhất, giúp tôi có thể sống sót sau trận đòn hội đồng, là tôi phải nhịn bữa ăn trưa. Đơn giản vậy thôi!
Nghĩ vậy, tôi cố nén xúc động, nói:
- Em cảm ơn anh Dzoãn Bình và các anh đã lo lắng cho tôi. Nhưng tôi thấy tất cả những cách các anh bàn từ nãy đến giờ đều rất khó thực hiện. Vì vậy tôi không còn sự chọn lựa nào khác ngoài việc chấp nhận để cho chúng nó đánh. Nếu các anh la hét hay tuyệt thực để bảo vệ tôi, không cho chúng đánh tôi hôm nay, thì cho dù chúng có chịu thua hôm nay, chúng vẫn còn nhiều dịp để đánh tôi trong tương lai. Thậm chí, nếu tôi chống cự hôm nay, mai kia khi tôi ra ngoài lao động, chúng có thể bắn bỏ tôi bất cứ lúc nào, rồi ghép tôi vào tội vượt ngục...
Chuyện ghép tù vào tội vượt ngục rồi bắn bỏ là chuyện có thật đã xảy ra ngay ở Quân lao Gò Vấp trước khi tôi tới. Ít nhất có hai chuyện, tôi được nghe. Anh em trong tù vẫn thường kể cho nhau nghe những chuyện này để giúp nhau cảnh giác, thận trọng mỗi khi phải ra ngoài lao động. Chuyện thứ nhất, một anh tù hình sự (lâu ngày tôi không còn nhớ tên), gốc bộ đội, phạm tội ăn cướp một tiệm vàng ở Sàigòn. Khi vào Quân lao Gò Vấp, không hiểu vì lý do gì, có lần anh cãi với một tên vệ binh. Tên vệ binh đuối lý nên nuôi lòng thù hận. Ngày nọ, khi mang tù ra ngoài lao động, tên vệ binh liền gọi anh đi theo hắn. Nội vụ sau đó như thế nào không ai rõ, chỉ biết tên vệ binh đã bắn chết người tù và khai anh ta đã bỏ chạy nên tên vệ binh phải bắn. Chuyện thứ hai, một người tù đi lao động về, bị vệ binh giữ lại chuyện trò cho đến chập tối, rồi tên vệ binh sai anh chui vô trong hàng rào kẽm gai nhặt hộ trái bóng chuyền. Khi người tù chui vô, tay chưa với tới quả banh, thì bị tên vệ binh bắn chết, và bị vu cho tội vượt ngục.
Tôi biết, tôi đánh lại quản giáo là điều vô cùng dại dột. Nhưng để chuộc lại sự dại dột đó, tôi chỉ có cách duy nhất là ngoan ngoãn ra ngoài cho chúng đánh. Còn chống lại chúng, trong hoàn cảnh tù đầy như vậy, là tôi đã đi từ dại dột này đến dại dột khác, để rồi cuối cùng, tôi có thể phải trả giá đắt bằng chính tính mạng của mình.
Vì anh em bạn tù ai cũng nghe, cũng biết những vụ hành quyết tù bằng cách ghép cho tù tội vượt ngục, nên nghe tôi nói vậy, ai cũng thấy hợp lý. Mọi người chỉ biết chúc tôi may mắn, rồi buồn bã về chỗ của mình. Còn tôi, cố giữ thái độ bình thản, trò chuyện thản nhiên với anh Dzoãn Bình, nhưng trong lòng tôi, bồn chồn lo lắng khôn tả.
Trưa hôm đó, khi chia "cơm", tôi nói anh em đừng chia cho tôi. Nếu sau trận đòn hội đồng, tôi còn đủ mạnh để ăn, thì tôi ăn xuất "cơm" chiều cũng đủ. Hồi đó, cứ 5 người tù chung một mâm "cơm". Để bảo đảm chia chác được công bằng, mỗi người tù được chia một bữa. Chia xong, các người tù nhận phần của mình, còn người tù nhận trách nhiệm chia bữa đó phải nhận phần của mình sau cùng.
Sống trong tù, đói khát triền miên là chuyện thường. Trong tù cộng sản, đói khát lại khủng khiếp hơn một bậc. Vậy mà buổi trưa hôm đó, tôi phải nhịn đói, nhìn cảnh anh em bạn tù ăn uống, mà lòng tôi bồn chồn lo lắng trận đòn thù sắp tới.... Đói, lo, tinh thần căng thẳng, tôi đã ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Đang ngủ, bỗng tôi giật mình thức giấc khi có người lay gọi. Mở mắt, tôi thấy anh Dzoãn Bình ngồi ngay cạnh, nhìn tôi với anh mắt lo âu. Anh bảo:
- Bốn giờ rồi, cậu dậy chuẩn bị.
Phải một vài giây bàng hoàng, tôi mới nhớ ra trận đòn thù đang từng phút đến gần. Tôi ngạc nhiên:
- Em đâu cần phải chuẩn bị gì?
Anh Minh hất cằm về phía Minh "mã tấu":
- Nó bảo cậu mặc thêm một bộ quần áo nữa bên ngoài... Mặc vậy nhẹ đòn đi nhiều lắm.
Ngay lúc đó, Minh bước tới, cũng nói:
- Ông Chí nghe tôi mặc thêm bộ quần áo nữa.
Minh hơn tuổi tôi. Người Hải Phòng, tính khí ngang tàng, thích đập lộn, nhưng rất tốt với bạn. Trong tù, Minh quý Cẩm, vì Cẩm là quân sư, chuyên viết thư hộ cho Minh; và tôi vì Minh rất thích nghe tôi kể chuyện chưởng.
Tôi lắc đầu:
- Mặc làm gì hai bộ. Ra ngoài nó thấy nó lột ra thì cũng vậy, mà nó còn khinh mình nhát.
Anh Dzoãn Bình cười héo hắt:
- Thì cậu nghe tôi, cứ mặc vô, khi nào nó lột hãy hay. Còn nó khinh mình nhát thì mặc cha nó... Miễn sao mình còn sống là được.
Tôi vẫn cương quyết:
- Không, em không mặc.
Thấy tôi cương quyết như vậy, Minh bỏ về. Anh Dzoãn Bình nhìn tôi định nói gì, lại thôi.
Tôi lấy khăn mặt, nhúng nước, lau mặt mũi tử tế, rồi ngồi xuống chờ đợi. Cho đến lúc đó, tôi vẫn cầu mong, tin tụi vệ binh quản giáo sẽ đánh hội đồng tôi do người tù "tự quản" bao tin là tin vịt. Tôi biết niềm hy vọng của tôi vô cùng mong manh và vô lý, nhưng trong giây phút đó, tôi đâu biết bấu víu vào đâu...
Không khí trong phòng giam lúc đó oi bức và ngột ngạt khôn tả. Tất cả mọi người tù trong phòng, không ai bảo ai, cũng đều ngồi im lặng, chờ đợi...
Bốn giờ 20, rồi bốn giờ rưỡi... vẫn không thấy động tĩnh gì. Bỗng nhiên, người tù đứng ở cửa sắt, khom lưng nhìn qua cửa tò vò la lên khe khẽ:
- Tới rồi... Chúng nó tới...
Cả phòng giam đột nhiên trở nên hối hả, gay cấn. Người tôi bỗng dưng lạnh toát, mà chẳng hiểu sao, mồ hôi lại vã ra đầy trán. Tôi vẫn cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng trái tim đập thình thịch liên hồi, như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực...
Tiếng Minh vang lên:
- Bao nhiêu thằng?
Người tù không trả lời thẳng vào câu hỏi. Thay vì vậy anh nói:
- Thằng "lùn" đi đầu. Theo sau là tụi vệ binh... Một, hai, ba, bốn,... tám, chín... Khoảng hơn chục đứa.
Thằng "lùn" là bí danh anh em tù đặt cho quản giáo Trường.
Nghe người tù đếm số vệ binh, cứ thêm một đứa, bụng tôi lại đau thắt lại. Tôi nghĩ hôm nay chắc là ngày tôi tận số. Tôi kinh hoàng, lo sợ, vội cầu Trời, khấn Phật. Mẹ tôi theo đạo Phật, nhà nghèo xác xơ nhưng lúc nào trên bàn thờ cũng hương khói nghi ngút. Bố tôi theo đạo Thiên Chúa và là đạo gốc, nhưng vì sống dưới chế độ cộng sản, nên tôi chỉ thuộc lõm bõm có Kinh Kính Mừng và Kinh Lậy Cha, nên trong lúc sợ hãi, tôi cũng vội lẩm bẩm đọc...
Bỗng nhiên, người tù đứng ở cửa vội quay về chỗ, miệng la lên:
- Thằng "lùn" tới...
Cả phòng giam đột nhiên im lặng. Sau đó không lâu, tôi nghe tiếng mở khoá, tiếng xích sắt vang lên, rồi hai cánh cửa sắt mở toang. Nhìn ra, tôi thấy quản giáo Trường đứng giữa, hai bên là hai vệ binh cầm súng AK-47 trong tư thế sẵn sàng nhả đạn. Tên Trường quét cặp mắt cú vọ một vòng, rồi la lớn:
- Anh Chí ra ngoài làm việc.
Tôi đứng dậy, bước đi, tai còn nghe tiếng anh Dzoãn Bình nói với theo trong vội vã, nghẹn ngào, "màu áo xưa". Nghe anh nói, tôi nghẹn ngào, rưng rưng lệ. "Màu áo xưa" là ba tiếng cuối trong bài thơ anh viết tặng cho tôi ngay buổi đầu gặp gỡ, "Thời gian sẽ thấy lại màu áo xưa". Ba tiếng đó như một lời nhắn gửi trinh nguyên tình nghĩa, một hứa hẹn thủy chung vuông tròn cho quá khứ, cho những người thân thương, nhưng ba tiếng đó cũng là mật hiệu được hai anh em thường dùng để khích lệ nhau mỗi khi gặp khó khăn, mà chỉ có anh và tôi biết...
Tôi bước ra ngoài, và bỗng dưng tôi chợt thấy trời buổi chiều thật đẹp. Nắng chiều chưa kịp tắt, vàng rực cả đất trời. Không khí bên ngoài thiệt tươi mát. Tôi hít một hơi thở thật sâu, và đột nhiên, thấy lòng mình thật thanh thản. Tôi chấp nhận hôm nay ăn trận đòn thù. Dù chúng có đánh tôi tàn nhẫn, dã man đến thế nào đi nữa, tôi sẽ cố gắng cắn răng chịu đựng, không một lời rên rỉ, không một tiếng van xin. Tôi cũng không chống lại chúng, không chửi bới chúng, vì tôi hiểu, sống trong chế độ cộng sản, ngay cả những người cộng sản cũng chỉ là công cụ; và nhiều khi, họ chỉ là những nạn nhân đáng thương mà thôi. Tôi biết, tôi sẽ chịu đựng được tất cả, tôi sẽ vượt qua được cửa ải vô cùng khó khăn này, sẽ giữ được mạng sống của mình, để trở lại phòng giam cho anh Dzoãn Bình thấy được "màu áo xưa"; để rồi trong một tương lai không xa, anh Dzoãn Bình và tôi sẽ vượt biên, đến một vùng trời tự do. Mang trong tâm tư ý nghĩ đó, tự dưng tôi thấy lòng mình thật bình tĩnh, khác hẳn lúc trước, trong phòng giam, lòng tôi bồn chồn, lo sợ, hoảng hốt vô cùng.
Sau khi đóng cửa sắt và khoá lại, Trường quay qua bảo:
- Đi theo tôi.
Tôi lặng lẽ đi theo Trường. Sau tôi là hai vệ binh. Đi khoảng ba chục thước, tôi bước vào phòng ăn, đối diện phòng giam A-1. Mang tiếng là phòng ăn, cả phòng ăn rộng mênh mông hơn 100 thước vuông chỉ có một chiếc bàn nhưng không phải là bàn ăn. Vào giờ ăn, chỉ có tù giam trong A-1 được ăn ở phòng ăn này, và tất cả đều phải ngồi ăn ngay trên sàn xi măng.
Trong phòng ăn lúc đó có khoảng chục tên vệ binh tay không, đứng chung quanh tường. Tất cả đều im lìm, lạnh lùng. Góc trong cùng về phía tay phải là chiếc bàn duy nhất. Quản giáo Trường bước lại phía sau bàn, chống hai tay vào mặt bàn, im lặng nhìn tôi. Hai tên vệ binh ghìm súng, đứng hai bên. Tôi đứng trước mặt tên Trường, cách chiếc bàn khoảng hơn một thước. Tên Trường quắc mắt nhìn tôi, ánh mắt đầy oán độc. Tôi nhìn thẳng mắt Trường, cố gắng giữ ánh mắt thản nhiên, không chút căm giận, thù hận. Thú thực, lúc đó, tôi không muốn chọc giận quản giáo Trường chút nào. Tôi tha thiết muốn sống bằng mọi giá. Chọc giận hắn sẽ vô cùng nguy hiểm, vì Trường là người thiểu số, thẳng tính, nhưng rất nóng, khi cơn giận nổi lên, y sẵn sàng làm mọi chuyện kể cả giết người. Thứ hai, chế độ cộng sản đã cố tình dung dưỡng và trao cho những người như Trường quyền sinh sát, để hắn thẳng tay diệt trừ tất cả những ai ngang bướng chống đối lại chế độ.

KỲ  53

Sau khoảng mươi giây đồng hồ nhìn tôi đầy căm giận, Trường hỏi tôi giọng cục cằn:
- Sáng nay mày nói gì, mày còn nhớ không?
Tôi im lặng không biết trả lời thế nào. Tôi biết, sự im lặng của tôi càng chọc giận quản giáo Trường. Nhưng nêu nhắc lại lời nói buổi sáng, tôi sẽ đổ dầu vào lửa.
- Mày nói mày vào đây để cải tạo, nên chúng tao không được quyền đánh mày phải không?
Tôi vẫn im lặng. Tên Trường chửi thề:
- Đ.M. Chúng mày vào đây là để cho chúng tao hành hạ cho đến chết. Đầu óc chúng mày có sạn làm sao mà cải tạo nổi.
Đấm tay xuống mặt bàn đến rầm, tên Trường gào lên:

No comments:

Post a Comment