Saturday, November 5, 2011

MỘT QUÃNG ĐỜI


    
Số tôi hình như có duyên nợ làm sao ấy với xứ Huế, chốn thần kinh, miền sông Hương núi Ngự.  Ra Huế học những năm trung học thời Pháp thuộc, vừa thi đậu đíp-lôm xong (thời ấy gọi là bằng thành chung), việc trước mắt của tôi là tìm công ăn việc làm để nuôi sống bản thân, phần nào giúp đỡ gia đình.  Cha mẹ tôi năm ấy đã già, tôi là con trưởng trong một gia đình đông con, mẹ tôi, một nhà giáo sắp về hưu, nên đã xin thuyên chuyển từ một tỉnh miền nam, nơi mẹ dạy học, về Quảng Ngãi, chốn quê hương để sống với tuổi già.  Sau một thời gian ngắn về Quảng thăm nhà để thầy mẹ mừng mình thi đậu, trong làng ngoài quận bà con cô bác đối với mình có phần khác, trọng nể gia đình mình hơn, vì mình đã đậu thành chung, mảnh bằng mà thời ấy có thể mở cửa cho vào nhiều ngành công chức hạng trung như Tòa sứ, Kho bạc, Lục lộ, Giây thép, Thương chánh... thuộc chính phủ bảo hộ, hoặc ngành quan lại Nam triều, bắt đầu với chức vụ thừa phái.  Tuy chưa là gì cả, và chắc không bao giờ tôi dám tỏ ra "chưa đổ ông nghè đã đe hàng tổng", nhưng thái độ của bác xã trưởng Vy Thừa, qua cách xưng hô gọi tôi bằng thầy, đôi khi còn cường điệu kêu bằng "thầy tú", chứ không gọi thẳng tên "thằng Đức" như xưa nữa - vì bác xã là bạn với cha tôi, nên coi tôi vào hàng con cháu - tôi cảm thấy bác xã có vẻ nể nang mình.  Biết đâu đấy, tôi suy đoán theo lối nghĩ của bác xã - nó có thể trở thành một ông phán tòa sứ, được bổ nhiệm về tỉnh nhà, chắc bác có nhiều dịp cần đến sự giúp đỡ của tôi, khi có việc phải vào chốn công đường.  Viên Công sứ người Pháp, chắc chắn bác xã không khi nào được tiếp xúc, nhưng bác sẽ phải gặp các thầy phán, cụ Hường, cụ Thị, quan tham đầu tòa.  Thời đó là như vậy, vào những thập niên 40.

        Tôi ra Huế trở lại vào cuối tháng tám năm ấy để chuẩn bị dự kỳ thi thư ký tòa sứ Trung Việt, sắp sửa mở vào đầu năm dương lịch mới.  Không còn việc "sôi kinh nấu sử" để thi lấy bằng trung học Pháp nữa, mà qua bốn năm học ở ban thành chung, tôi đã phải gạo nào toán, lý-hóa, văn chương Pháp và văn học sử Pháp, sử-địa, viết luận văn, tất cả đều bằng tiếng Pháp lúc bấy giờ.  Giờ đây, với mảnh bằng thành chung trong tay, tôi không còn cái học từ chương nữa, nhưng là sự học thực dụng, học để kiếm gạo, theo một chương trình do cơ quan tổ chức kỳ thi ấn định sẵn, gồm các môn Địa-lý Đông dương, kế toán công, dân luật, và một bài dịch Việt Pháp.  Trong các môn thi này, môn Địa-lý Đông Dương là khó nhất, không phải vì khó hiểu, nhưng khó nuốt trôi một quyển sách Địa-lý Đông Dương của tác giả Agard dày cồm cộp, bằng nửa quyển tự điển Larousse và lớn bắng nửa tờ nhật báo.  Hơn nữa, sách này không có bán tại các hiệu sách của các thành phố Huế nhỏ bé này, chỉ được trưng bày trong một tủ sách của thư viện Bảo Đại, thư viện duy nhất ở Huế mở cửa cho công chúng vào xem hằng ngày từ một giờ trưa đến chín giờ tối.  Và chỉ có bảy quyển dành cho hàng nghìn độc giả của thư viện, trong đó khoảng một trăm thí sinh cư ngụ tại Huế như tôi, sẽ nộp đơn dự thi Thư ký Tòa sứ.  Mật ít ruồi nhiều, làm sao được.  Thế là tôi phải đặt một kế hoạch cho bản thân.  Trọ ở nhà một người bạn học, tại khu vực sân vận động thành phố, mỗi ngày tôi phải đạp xe khoảng trên năm ký-lô-mét để đến thư viện Bảo Đại nằm trong thành nội ở phía bên kia sông, thuộc tả ngạn sông Hương.  Thư viện là một tòa nhà cổ kính, xây trên nền cao hơn một mét, mái ngói chạy con lươn rồng phượng, đặt trên mấy hàng cột gỗ lim cao, láng bóng, xung quanh là lớp vách ván sơn son thép vàng, để hở phía trên cao, lồng một hàng kính trong suốt đưa ánh sáng vào thư viện, phần lớn dùng làm phòng đọc sách thoáng mát.  Do đó, mỗi ngày tôi phải cố gắng đến sớm ở thư viện, tranh thủ mượn cho được quyển Địa lý Agard, trong số những độc giả đầu tiên mượn quyển sách này, cũng thí sinh như tôi, để đọc tại chỗ.  Nắm được quyển điạ lý trong tay, tôi tìm đến một chiếc bàn vắng vẻ.  Thế là không còn biết trời trăng gì nữa, trong bầu không khí yên tĩnh của phòng đọc sách, tôi mở sách ra, sẵn giấy bút đem theo, tôi ghi lại tất cả những ý chính trong sách, bắt đầu từ trang thứ nhất, và chép như máy bằng một lối tốc ký riêng mà các học sinh, sinh viên chúng tôi, người nào cũng phải biết khi trên bục, giáo sư nói thao thao bất tuyệt tại giảng đường, còn mình cứ chép lia lịa, không có thời giờ xem lại những gì mình đã chép.  Mãi đến chín giờ tối, trí óc mệt nhừ, thân xác uể oải, tôi mới bước chân ra khỏi thư viện đúng giờ đóng cửa.  Thành phố đã lên đèn lúc nào tôi không hay biết, cứ cắm đầu đạp chiếc xe đạp cũ kỹ trong đêm tối mà ánh đèn đường không đủ sáng, xe đi lạng quạng suýt ngã, tôi len lỏi qua các hàng cây âm u trong thành nội để đi dần ra phía cửa Thượng Tứ, về hướng cầu Tràng Tiền, tiếng các cô hàng chè rong rao ngọt ngào trong vườn hoa Nguyễn Hoàng, nhiều khách thừa lương đi qua lại hóng mát, hoặc trò chuyện trên những chiếc ghế đá trong vườn hoa.  Tôi chẳng để ý đến ai, đạp một mạch lên cầu, gió từ mặt sông đưa lên mát rợi, nhiều con đò du khách nằm êm nhẹ trên những khúc sông xa vắng mịt mù, ánh đèn dầu leo lắt treo trước khoan thuyền, xa xa trông như những đóm sao lấp lánh trên sông.  Huế ban đêm không đủ sáng, bóng cây che khuất gần hết ánh đèn, chỉ còn vài vùng sáng rực rỡ, đó là khu phố Trần Hưng Đạo hoạt động buôn bán về đêm thuộc tả ngạn, và câu lạc bộ Pháp ở bên hữu ngạn, nơi có hoạt động thể thao và ăn chơi của kiều dân Pháp và một số người Việt Nam sống theo lối Tây Phương.  Còn lại, hầu hết đều mù mịt, chìm trong bóng đêm, nhìn lên thượng nguồn, nhìn xuống hạ lưu con sông, không thấy gì hết, chỉ là một khoảng không gian mênh mông, âm u vô tận.  Có ai biết chăng trong đêm nay một chàng học sinh trẻ tuổi đang cặm cuội đạp xe về nhà trọ, xa thành phố, như đang đi về cõi hư vô, lòng dạ nhớ nhà hết sức.  Mẹ ơi, con đang ở xa mẹ vô cùng, cô đơn và nghèo khổ.  Với số tiền hơn một chục bạc mẹ gởi cho con hàng tháng, con phải nhịn đủ thứ để sống qua ngày, mâm cơm nhà trọ nguội lạnh, đĩa muối vừng nhiều hơn đĩa cá, tô canh, phải ráng nuốt chờ ngày thi đậu, về quê.  Cứ như thế liên tục hơn nửa tháng, với lối chép tốc ký đặc biệt chỉ bản thân đọc được, tôi đã ghi chép toàn bộ quyển Địa lý Agard của thư viện.  Mừng hết sức, giờ chỉ còn việc học, tụng cho xong các môn cần thiết để chờ ngày thi.
    Cuộc thi được diễn tiến trong bốn buổi sáng tại trường trung học Khải Định, với những môn thi viết, không có thi vấn đáp.  Hội đồng chấm thi làm việc trong hai tháng, khoảng cuối tháng tư năm ấy tôi được chấm đậu cùng gần ba trăm người khác, trong số khoảng một nghìn thí sinh thuộc mười sáu tỉnh miền Trung.  Đó là kỳ thi thư ký tòa sứ lấy số người đậu đông nhất từ trước đến nay, nhằm trẻ trung hóa đội ngũ thư ký tòa sứ, để bổ sung cho tất cả các tòa sứ Trung Việt, có nhu cầu trầm trọng các công chức trẻ, năng động, có bằng trung học Pháp, phục vụ đắc lực hơn, hầu thay thế dần các cụ phán già đáo hạn tuổi về hưu trí.  Các cụ phán già này, lúc trước chỉ đậu bằng tiểu học Pháp Việt, sống lâu ra lão làng, nên nay đã mang phẩm hàm cụ Hường, cụ Thị, do bên Nam triều phong cho, nhưng không có năng xuất bao nhiêu.  Các ngành chuyên môn khác của bảo hộ như Công chánh, Thương chánh... cũng có mở hằng năm các kỳ thi tuyển dụng công chức.  Những sĩ tử hỏng các kỳ thi bên bảo hộ đều nhảy qua thi thừa phái ngạch Nam triều.  Vì bên Nam triều cũng có nhu cầu đổi mới, cần nhiều viên chức trẻ, có tây học để dễ dàng liên lạc tiếp xúc với các công sở của Pháp, đa số các quan lại Nam triều là các cụ Cử, cụ Tú nho, giỏi Hán học, nhưng không rành tiếng Pháp bao nhiêu.  Cũng nằm trong phong trào đổi mới ấy, chính phủ Nam triều từ nay có tổ chức các kỳ thi tri huyện, là người đứng đầu một quận huyện ngày xưa.  Các vị phụ mẫu chi dân này được tuyển chọn qua những kỳ thi tổ chức mấy năm một lần tại Huế, trong số các thí sinh tốt nghiệp cử nhân luật khoa.  Cuộc thi gồm có các bài thi viết và một bài thi hùng biện, nên các tân huyện quan đều rất có giá trị, xứng đáng để được chọn mặt gửi vàng.  Các ông Trần Chánh Thành, sau này có thời làm bộ trưởng Ngoại giao thuộc Đệ Nhất Cộng Hòa, Cao Hữu Đồng, Hồ Tống, đều tốt nghiệp ở một khóa tri huyện này.
    Thi đậu tòa sứ, tôi đánh điện về Quảng để cha mẹ mừng, và mấy hôm sau đó, thu xếp hành lý xong, tôi đáp chuyến xe lửa tốc hành, lên ở ga Huế để về quê.  Mấy tháng về ở nhà, đi chơi dang nắng suốt ngày, tuổi thanh niên ăn uống không biết giữ gìn, nào đường, nào mía, cây trái trong vườn, nào xoài, mít, ổi, bòng, cậy mình còn trẻ, ăn uống gì cũng tiêu hóa, bệnh tật nào cũng lướt qua.  Do nhiễm trùng, tôi lên cơn sốt nặng, mắc bệnh thương hàn, nằm mê man bất tỉnh suốt bao nhiêu ngày.  Thời ấy, chưa có thuốc trụ sinh, nên bệnh thương hàn được coi là căn bệnh nan y, có thể đưa đến tử vong.  May nhờ có thầy tôi, ông bác ruột của tôi, và bác Thừa Tự, bạn của thầy, đều là những lương y nổi tiếng trong vùng, đã hội chẩn nhau bốc thuốc bắc cho tôi, khiến bệnh của tôi thuyên giảm dần.  Sau đó, tôi đi lại được, và bắt đầu ăn trả bữa.
    Khi tòa khâm sứ Pháp Huế đánh điện vào gọi tôi ra trình diện làm việc, tôi đã ăn uống biết ngon, nhưng vẫn còn ốm nhách, nước da vàng khè, chưa có một thoáng hồng hào hiện ra trên nét mặt.  Tuy thế, thầy mẹ tôi vẫn rất mừng, vì con được gọi đi làm, sau nhiều tháng chờ đợi ở quê nhà.  Huế và Quảng Ngãi xa nhau quá, không biết hỏi thăm ai ngày bổ nhiệm, khiến cho trong làng ngoài quận, người xấu dèm pha, có kẻ khuyên bóng gió cần phải chạy thầy chạy thuốc.  Riêng bản thân tôi vô cùng chán nản, vì trận đau làm tôi mất sức quá nhiều, tưởng không còn sống được nữa, nên tôi không tha thiết mấy đến việc đi làm, chỉ mong chóng được hồi phục sức khỏe mà thôi.  Mẹ dẫn sang tỉnh, thị xã  Quảng Ngãi thời ấy, đặt may cho vài bộ âu phục, mấy chiếc áo dài bằng lương đen, quần dài vải phin mới, và cho một ít tiền để ăn cơm tháng và tiêu vặt, chờ lãnh tháng lương đầu tiên.  Một niềm hân hoan hơn nữa đối với thầy mẹ, là tôi được bổ nhiệm tại tòa khâm sứ Huế ở Trung Ương, chứ không phải bị phân tán rải rác về mười mấy tỉnh của miền Trung như nhiều thí sinh khác.  Huế đẹp thật ! chỉ sau gần một năm xa cách, tôi trở lại nơi này.  Huế giờ đây hiện ra trước mắt tôi với một vẻ quyến rũ vô cùng.  Dòng sông Hương vẫn lặng lờ trôi qua dưới hai chiếc cầu, cầu Bạch Hổ phía thượng lưu để xe lửa chạy và cầu Tràng Tiền về phía hạ lưu cho xe hơi, xe đạp và người đi bộ.  Hai bên bờ sông, các hàng phượng vĩ đã hết mùa hoa nở - ngày tựu trường đến đã lâu rồi - và ve sầu cũng dứt tiếng ca chát chúa như lúc vào hè.  Nay tiết trời đã vào thu chuyển sang đông, đã có những trận mưa đông, báo trước những ngày lụt lội.  Đi trên cầu, nhìn những người qua lại, giờ đây tôi là một công chức trẻ tuổi, trong bộ âu phục mới, đôi giày da lộp cộp; mới đó mà đã qua thời kỳ học sinh trung học, chỉ có những chiếc áo dài đen trắng và đôi guốc gỗ quai da kéo bốn mùa.  Hai bên lề cầu, vẫn những nữ sinh Đồng Khánh, tóc thề xõa chấm bờ vai, chiếc áo dài vải phin trắng hơi cắt ngắn, chỉ buông xuống đầu gối, quần ống rộng, trông thật là xinh.  Nhưng không phải những học sinh đồng trang lứa với tôi, đây là những lớp mới lên, năm ngoái, năm kia còn học ở những lớp dưới, nay lên lớp thi tốt nghiệp, thay thế các bậc đàn chị đã tốt nghiệp năm vừa qua.
    Những người đi bộ nép theo hai bên lề cầu trái, phải, lòng cầu rộng rãi dành cho những chiếc xe tay (xe kéo) - thời ấy chưa có xe xích lô như bây giờ - các bác phu xe nón lá, áo cánh, quần đùi, khòm lưng kéo những người khách ngồi trên xe trông thật thoải mái, có khi chở thêm mấy thúng hàng hóa đặt dưới chân người khách, nối tiếp nhau xuôi ngược qua cầu.  Rất ít xe hơi, ngoài một số xe vận tải chở hành khách vào Nam hay ra Bắc, họa hoằn lắm mới có vài chiếc xe con của các viên chức người Pháp.  Còn các quan lại Nam triều và các viên chức Việt Nam thâm niên làm ở các công sở Pháp, các cụ Hường, cụ Thị, ngồi ngất ngưỡng trên những chiếc xe kéo nhà, màu đen bóng loáng, gọng đồng sáng chói, có đuôi tôm hoặc không có đuôi tôm, để phân biệt phẩm hàm và sự sang trọng khác nhau của vị khách ngồi trên xe; cũng như chiếc áo dài đen bằng lương, xuyến, hay đoạn, gấm hoa với khăn đóng, thẻ bài ngà to nhỏ đeo lủng lẳng trước ngực là biểu hiện cho chức quyền cao thấp.  Các quan tham, trong bộ âu phục chỉnh tề, ngồi ngay ngắn, dáng điệu gọn gàng hay bệ vệ tùy theo tuổi đời và thâm niên công vụ.  Cứ mỗi buổi sáng trong tuần, các bác phu xe nhà, áo quần tươm tất gần như đồng phục, xà cạp xanh quấn lên tận gối, chở các cụ phán già đeo kính trắng, áo dài, khăn đóng màu đen, hoặc các quan tham, âu phục, lần lượt hạ càng xe trước thềm tòa khâm sứ để các vị công chức vào sở làm việc, rồi kéo xe không trở về rước các tiểu thư đi học, các bà đi chợ, cảnh tượng trông rất quen mắt.  Cứ nhìn các cô ngồi trên xe là đoán biết ngay con gái vị nào: hai ái nữ cụ Thái Văn Toản từ trong thành đi ra, của cụ Ưng Bàng từ phía Gia Hội đi lên, xe tay chạy qua cầu Tràng Tiền, các cô ngồi trên xe, mái tóc buông lơi trên chiếc cổ trắng nỏn nà, hai chiếc đầu tóc đen ngồi bên nhau xoay qua lại, từ đằng sau nhìn tới trông như những con chim chích chòe, mình trắng đầu đen.  Công việc nhà xong, các bác phu xe nhà lại đi kéo xe đi đón quan về ăn cơm trưa, chiều lại đưa quan đến văn phòng làm việc trở lại, ngày hai buổi như thế, bước chân các bác mấy lần chạy thoăn thoắt trên cầu và trên các con đường phố Huế, để làm công việc đưa đón, các bác có nghĩ chăng đó là một hành động nô lệ của thời quan liêu phong kiến, hình ảnh con ngựa người ấy không còn tồn tại nữa với sự ra đời của chiếc xe xích lô.  Chỉ bọn thư ký trẻ chúng tôi, chưa có tiền sắm xe kéo nhà, nên đạp xe đi làm, trông mạnh dạn và thể thao hơn.
    Tôi vào làm việc tại sở Lưu Trữ Công Văn và Thư Viện Trung Kỳ, sở này trực thuộc tòa khâm sứ Huế trên phương diện quản lý và hành chánh, và về phương diện chuyên môn thì nằm trong hệ thống Thư Viện Đông Dương tại Hà Nội.  Vị giám đốc đầu tiên khi tôi mới ra làm việc là ông Ngô Đình Nhu.  Trong lệnh bổ nhiệm, tôi cùng một người nữa, anh Nguyễn Đình Khang, quê quán tỉnh Nghệ An, được phân phối về sở Lưu Trữ Công Văn và Thư Viện Trung Kỳ.  Năm ấy tôi vừa tròn hai mươi tuổi.  Khác với người bạn đồng nghiệp kia, mặc bộ âu phục màu nâu xẫm, sơ mi, cà vạt chỉnh tề, nói năng hoạt bát, ba hoa, chỉ phải dáng người hơi thấp và hàm răng hô, tôi không có vẻ gì là một công chức, mà là một anh thư sinh nửa quê nửa tỉnh, hiền lành, nhút nhát, gầy nhom, nước da xanh mét, hậu quả của bệnh thương hàn vừa qua.  Ông Ngô Đình Nhu rất trẻ, khoảng ba mươi tuổi, đã tốt nghiệp trường Thư Viện Pháp (École de Chartres) và cử nhân văn khoa Pháp - khoa sử - là vị giám đốc đầu tiên người Việt Nam, ngang hàng với các giám đốc người Pháp, và trực thuộc vị khâm sứ Pháp, ông Grandjean, thạc sĩ sử địa.  Khi chúng tôi vào trình diện, ông Nhu báo cho chúng tôi biết trước là sẽ đưa chúng tôi đi tu nghiệp thực tập tại Tổng Nha Văn Khố và Thư Viện Trung Ương Hà Nội thuộc phủ toàn quyền, để xác nhận kiến thức chuyên môn.  Hai chúng tôi, tiếp sau đó được phối trí vào hai ngành, tôi vào ban Văn Khố và Khang vào ban Thư Viện.  Đồng nghiệp của tôi là anh Hồ Văn Thuyên, thuộc lớp đàn anh, một thư ký tòa sứ đã lâu năm, ngày trước làm việc ở  tòa công sứ Pháp Sông Cầu, nơi mẹ tôi dạy học.  Anh Thuyên dáng người nho nhã, thanh thanh, hơi thấp, quê tỉnh Thừa Thiên, mà sau này tuy ít gặp nhau, tôi vẫn mến anh.  Thấy tôi vừa ốm dậy, anh để cho tôi làm công việc nhẹ trong mấy tháng, và học máy đánh chữ.  Sau đó, tôi học hỏi cách sắp xếp hồ sơ lưu trữ, rút tất cả kim găm đã sét rỉ bỏ đi, và loại bớt những bản phụ của các công văn đánh máy, chỉ giữ lại bàn chính có chữ ký và con dấu của giới chức ký tên, đồng thời sắp xếp các văn kiện theo thứ tự thời gian, mới trên, cũ dưới, và đánh số trang.  Mục đích để làm gọn nhẹ các hồ sơ lưu trữ, và dễ tìm.  Sau đó xếp tất cả vào một bìa hồ sơ in mẫu của Sở Lưu Trữ, cho mỗi hồ sơ một con số thứ tự, viết chữ lớn ở gốc trái bìa đựng hồ sơ, và cứ khoảng ba hay bốn chục hồ sơ đã hoàn tất đều cho vào một thùng cát tông lớn đặt đứng trên tủ gỗ nhiều ngăn, gần trăm chiếc như vậy chiếm cả từng lầu khu văn khố, tần dưới là thư viện, nơi anh Khang làm việc.  Các hồ sơ lưu trữ khi đặt vào hộp nằm trong tủ chỉ còn được biết với con số thứ tự của mình, và mỗi hồ sơ có một tấm phiếu nhỏ bằng bìa xếp trong các tủ phiếu.  Sau mấy tháng làm việc và học hỏi kinh nghiệm anh Thuyên, tôi đã nắm vững kỹ thuật sắp xếp hồ sơ lưu trữ của tòa khâm sứ Huế, cứ 5 năm một lần được đưa đến văn khố chúng tôi để lưu trữ và khai thác.  Ngoài ra, tôi còn đọc các văn thư, các bản thông tư, các bản phúc trình, báo cáo, do các ban ngành soạn thảo, cũ đã nhiều năm, để học hỏi cách hành văn, hành chánh Pháp, đơn giản, ngắn gọn, trong sáng, mạch lạc, viết đúng, việc này sẽ có ảnh hưởng rất tốt về sau trong cuộc đời công chức và quân đội của bản thân tôi. Cùng làm việc với tôi và anh Thuyên, còn có cụ phán, thường được gọi là cụ Thị L, do phẩm hàm Thị Độc Học Sĩ của  cụ, một cụ phán già, cũng có thời làm việc ở Sông Cầu, chỗ quen biết với thầy mẹ tôi lúc trước.  Tính tình cụ phán L dễ nóng giận bất tử, nói năng bèm nhèm, mỗi lần nóng giận, cụ phùng mang, trợn mắt, người cụ cao lớn, tay đập thình thịch, trông như Từ Hải chết đứng giữa trận tiền, anh Thuyên tuy nhỏ người nhưng hay thích châm chọc cụ.  Tuy ít thân với cụ, nhưng tôi vẫn kính trọng cụ, vì cụ quen biết với cha mẹ tôi, và Trí, con trai lớn của cụ là bạn học của tôi lúc ở Sông Cầu.
    Thấy tính tôi hiền lành, ít nói, suốt ngày cần cù làm việc, ông Nhu thường giao cho tôi những công tác cực nhọc, như sắp xếp lại ngăn nắp kho chứa các loại công báo của tòa khâm, bỏ xó lâu ngày không ai săn sóc.  Nào "công báo Đông Dưong" đã đóng bìa cứng gáy da, gáy vải, "tập san hành chánh Trung kỳ" cũng đã đóng thành tập, đánh theo số năm tháng, nhiều số báo rời, nằm vươn vải thành từng đống trên sàn nhà, nào các hồ sơ linh tinh đủ loại, nằm lẫn lộn với các công báo, tôi phải mất cả tuần lễ mới phân loại, sắp xếp xong, để tạo cho mình những đức tính của người công chức ngành văn khố và thư viện là cần cù lao động không mệt mỏi, chịu ngửi bụi thời gian bám đầy trong  những chồng báo cũ; những tập hồ sơ đủ loại, nhưng nếu chịu khó tìm hiểu, thì đó là những tài liệu lịch sử quý giá, liên quan đến việc bang giao Việt Pháp.  Trong thời gian tôi làm việc tại kho giấy cũ, ông Nhu thỉnh thoảng đến để kiểm tra công việc, có khi đích thân ông tự tay khuân vác các chồng báo cũ, sắp theo ý mình để tôi bắt chước, ông im lặng lao động rồi ra về không nói một lời.  Nhưng có một hôm đứng xem tôi lao động, ông Nhu hỏi tôi bằng một câu tiếng Pháp: "Anh có gởi chút đỉnh gì về cho mẹ anh không?"  Tôi trả lời: "Dạ có, thưa ông giám đốc".  Ông nói thêm: "Hãy cố gắng vươn lên, đừng có ở mãi chân thư ký suốt đời".  (Envoyez vous quelque chose à votre maman?  Tâchez de vous élever, ne restez pas secrétaire toute votre vie).  Câu nói ấy đã khiến cho tôi rất cảm động, nói lên lòng hiếu thảo - ông Nhu rất có hiếu đối với mẹ - vừa động viên tôi, đã tác động đến tâm hồn tôi lúc bấy giờ, là một phương châm hướng dẫn tôi trong suốt cuộc đời.  Tuy về sau tôi ít có dịp được gặp ông Nhu, vì ông được đổi ra Hà Nội làm Tổng Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Trung Ương thay thế cho ông P. Boudet người Pháp bị trả về chính quốc sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền.  Những năm sau này, tôi vào quân đội và được đổi vào Sài Gòn làm việc, và ông Nhu sau nhiều năm lận đận, đã thoát khỏi chế độ độc tài cộng sản vào Sài Gòn làm báo, rồi giữ chức vụ Cố vấn Tổng Thống Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng Hòa.  Tuy làm ở Bộ Quốc Phòng 63 Gia Long, sát nách Phủ Tổng Thống, tôi không bao giờ được gặp ông nữa, và cũng không bao giờ lấy lý do thầy trò cũ để nhờ cậy, hoặc xin ông Cố vấn một ân huệ gì, vì lòng tự trọng không biết nịnh hót, và tính tình nhút nhát của tôi.  Duy một lần tôi nghe nói ông có nhắc đến tên tôi, hỏi tôi hiện giờ làm gì ở đâu, khi nghe anh Chi bạn đồng nghiệp cũ của tôi tại Sở Lưu Trữ Công Văn và Thư Viện Trung kỳ lúc trước, cũng là đệ tử cũ của ông, vào trình diện ông Cố vấn trước khi đi nhậm chức tỉnh trưởng Phú Bổn.  Cho mãi đến giữa năm 1963, tôi mới được nhìn thấy lại ông Nhu lần đầu tiên và cũng là lần chót, khi ông Cố vấn Tổng Thống đến chủ tọa một buổi lễ mãn khóa chiến tranh chính trị cấp đơn vị trưởng, chúng tôi là sĩ quan cấp tá trong khóa học, được Trung tướng Trần Văn Đôn, tham mưu trưởng liên quân lúc bấy giờ hướng dẫn, từng người một lần lượt đến trước bàn vị chủ tọa trình diện ông Cố vấn.  Chẳng biết ông còn nhớ mặt tôi hay không, trong công việc quốc sự đa đoan đè lên đôi vai gầy, nét mặt nhiều suy nghĩ của ông đã già đi qua bao năm tháng, ông có nhớ đến người thư ký trẻ, tuổi hai mươi, vẻ còn con nít cách đây trên hai chục năm đã làm việc dưới quyền ông và đã được ông khuyên dạy một câu nhớ đời.  Tuy ông Ngô Đình Nhu đã bị giết trong cơn chính biến tháng 11 năm 1963, cùng với bào huynh của ông là Tổng Thống Ngô Đình Diệm.  Hai anh em ông có tội hay có công với Tổ quốc, việc này đã đi vào lịch sử, nhưng những năm tháng làm việc dưới quyền ông tại sở Lưu Trữ Công Văn và Thư Viện Huế đã đào tạo cho tôi tác phong của một viên chức ngành thư viện, với đức tính cần cù lao động, không ngại bụi bặm, với tấm lòng hiếu học, ham thích đọc sách, và trân trọng sách báo mình đang có trách nhiệm bảo quản.  Nét mặt khắc khổ, nghiêm nghị của ông, cũng như khả năng văn hóa của ông đã khiến cho một chàng thư ký trẻ như tôi, kính vì nết, trọng vì tài.  Ngày ông Nhu cưới vợ, chúng tôi đã được mời đến dự bữa tiệc tại tư thất của ông bà, một villa cổ kính vùng An Định, nơi có nhà thờ Phú Cam lớn.  Bà Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, ái nữ của vị luật sư lão thành Trần Văn Chưong tại Hà Nội - đã đích thân rót rượu mời chúng tôi uống, cùng nhâm nhi các món khai vị của miền sông Hương núi Ngự.  Lúc mới cưới, hai ông bà thường đưa nhau đến xem nơi chúng tôi làm việc, tôi còn nhớ người bà thấp nhỏ, mặc chiếc áo hàng màu xanh da trời, chiếc khăn châle mỏng, đôi giày cao gót, ăn mặc đúng mốt Hà Nội.  Tiếng giày bà lốc cốc lên cầu thang như hòa nhịp với bước chân người chồng giày da lộp bộp, từng bước chậm rãi đi vào.  Ông Nhu thường đi đến sở với chiếc xe đạp mecadura sáng bạc.
    Lời khuyên của ông Ngô Đình Nhu lúc tôi mới ra đời làm việc đã ảnh hưởng không ít đến cuộc đời của tôi.  Tôi đã phấn đấu rất nhiều để vươn lên trong ngành công chức, để không còn dậm chân tại chỗ với chức vụ thư ký suốt cả cuộc đời.  Khi vào quân đội, tôi đã cố gắng học thêm đôi chút để trau dồi trí tuệ, trèo lên cao trên chiếc thang cấp bậc, được những chức vụ tương đối khá quan trọng trong cuộc đời binh nghiệp.  Nhưng tất cả những thứ đó để làm gì?  Tiền tài, danh vọng, sự nghiệp, bằng cấp, tất cả đều như đã cuốn theo chiều gió sau ngày 30-4-1975.  Một trang lịch sử đã được lật qua.  Mọi việc đều đã trở thành dĩ vãng, nhiều nhân vật đương thời, kẻ còn, người mất nay đã qua rồi.  Đời tôi cũng sẽ trôi qua và chấm dứt.  Mọi thứ trên đời này đều giả dối, vô nghĩa và phù du.  Đâu rồi người xưa, cảnh cũ.  Còn đâu nữa, những cảnh cùng nhau miệt mài đèn sách để mong thi đậu một chứng chỉ, một mảnh bằng, còn đâu nữa những ngày chờ đợi xem có tên mình trúng tuyển vào ngạch công chức cao hơn, hoặc trong danh sách những người thăng cấp trong quân đội, hoặc hồi hộp sung sướng để đi đến buổi hẹn với người yêu.
    Giờ đây chỉ còn lại những kỷ niệm trong bóng xế của cuộc đời. Gợi lại những kỷ niệm ấy trong vui buồn lẫn lộn.  Những bạn cũ của tôi ở Huế, lúc tôi mới ra đời làm việc.  Các anh Thuyên, anh Phố, anh Châu, anh Sung, và các anh khác, giờ này các anh ở đâu?  Còn sống hay đã hóa ra người thiên cổ.  Tôi nhớ đến tất cả các anh.  Ngoài kia trời đang mưa, trong gió lộng, một chiều thu.
Đức Nguyên
Sông êm như thuở còn tươi mát
Mười tám xuân nghiêng nón đợi chờ
Vi Khuê

No comments:

Post a Comment